Thơ: Hoàng Rô
Tranh: Một Danna
Sáu con sông: Cầu, Thương, Lục Nam, Đuống, Kinh
Thầy, Thái Bình hội tụ vào một nơi, gọi là Lục Đầu Giang, linh khí bao trùm cả
một vùng châu thổ.
Ở chỗ thung lũng ba phía núi Rồng bao yểm, hai bên
tạo thế rồng chầu hổ phục, trước là minh đường của Lục Đầu Giang uốn vào, thật
là một địa thế trời cho để dựng nghiệp lớn.
Đức Thánh Trần cách đây gần tám trăm năm ra đời
tại Vạn Kiếp, sau dựng phủ đệ và nơi đóng quân, khi qua đời bảy mươi hai nấm mộ
thật giả rải rác khắp nơi này.
Xưa, hàng trăm anh hùng khắp nơi về đây tụ nghĩa,
làm môn khách dưới trướng của Đại Vương.
Phạm Ngũ Lão một trang hào kiệt
văn võ song toàn,
Trần Thì Kiến nổi danh tài hùng
biện,
Trương Hán Siêu học vấn cao sâu,
mà tài văn chương ít ai sánh kịp,
Yết Kiêu có biệt tài bơi lặn, mà
lòng trung kiên hậu thế vẫn noi theo,
Những môn khách khác như Dã Tượng, Ngô Sĩ Thường,
Trịnh Dũ, Phạm Lãm, Nguyễn Thế Trực, Nguyễn Địa Lô… đều là những anh hùng cái
thế, công lao trong sử sách vẫn ghi.
Nay, ta đứng trước cổng
đền Kiếp Bạc, ngước nhìn bốn chữ "Hưng
Thiên Vô Cực", ngắm cảnh núi sông hiền hoà trầm mặc mà ẩn tàng sức
mạnh bền sâu, nghĩ lại đất nước trải qua bao phen lầm than bởi bọn ngoại xâm và
bè lũ trong nước bạc nhược nhưng thời nào cũng có hào kiệt đi ra từ nhân dân,
từ linh khí non sông, xúc động nhớ Đại Vương từng nói: "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ
nước vậy".
Ta lại nhìn hai vế đối ở hai bên cổng đền của cụ
Vũ Phạm Hàm:
"Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm
khí
Lục Đầu vô thuỷ bất thu
thanh"
nghĩ thế sông núi hiểm trở linh thiêng, anh hùng
ẩn phục khắp chốn dân gian, vậy mà sao cứ phải chịu nghịch cảnh bị o ép?
Những mảng tường nơi cổng đền
tróc lở,
những bãi phân trâu ngang ngổn
khắp sân đường,
những quán hàng xấp xê ghế bạt,
những tiếng mời chào dai dẳng
cuộc mưu sinh.
Tất cả cuốn theo nhịp sống thường ngày, quên rằng:
Nằm sâu dưới sân bê tông là gươm
đao và những cánh tay Sát Thát,
Trong bùn đen vẫn tanh máu giặc
Nguyên Mông.
Bến sông đây ba quân reo hùng khí
ngất trời,
Bãi lau kia từng vang lời Hịch
tướng sĩ:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như
cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân
thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa,
cũng nguyện xin làm”.
Khi ấy,
giặc Mông Cổ làm cỏ một nửa thế
giới,
khí hung hăng hòng nuốt chửng Đại
Việt ta,
nhưng non sông ta sâu hiểm, nhân
tài cái thế,
uy dũng phi phàm vượt khỏi sự
nghi ngại tử sinh,
Đại Vương làm yên lòng hoàng đế: “Bệ hạ chém đầu thần trước rồi hãy hàng”.
Đoàn kết nhân dân, đồng lòng
tướng sĩ,
phép dụng binh có sẵn chiến lược
lâu dài,
quân sĩ hùng hổ giao tranh,
hào khí Đông A ngùn ngụt khắp
chiến trường.
Bến Vạn Kiếp,
bản hùng ca dậy chí vạn kiếp
người.
Ngẫm vận khí của một quốc gia,
lúc thịnh lúc suy cũng là chuyện
dễ hiểu.
Phát triển hùng cường rồi đến kì
khủng hoảng,
qua kiếp nạn rồi đến dịp khải
hoàn ca.
Nếm mật nằm gai chỉ dài trong mấy
khắc,
mà đỉnh vinh quang cũng tựa như
lúc ăn một bát phở ngon.
Nhưng cuộc đời cứ âm thầm diễn ra
như thế,
lẽ hưng vong tự nhiên mà bại, mà
thành.
Vòng quay lịch sử hút chí anh
hùng bôn tẩu,
sóng Lục Đầu Giang cuốn những
cuộc tỉ thí tang bồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét