Theo Hassan, danh từ postmodernism được
Federico de Onis đưa vào văn bản lần đầu vào thập niên 1930 để chỉ sự ảnh hưởng
đối kháng với chủ nghĩa hiện đại. Danh từ này được sử dụng một cách phổ biến
vào thập niên 1960 tại New York, theo sau sự xuất bản hai cuốn sách phê bình về
mỹ thuật kiến trúc: The Death and Life of Great American Cities của
Jane Jacobs vào năm 1961 và cuốn Complexity and Contradiction in
Architecture của Robert Venturi vào năm 1966. Trong khi Jacobs phê
bình những quá trình hiện đại hoá đô thị đã làm mất đi tính mỹ thuật về kết cấu
tổng thể của thành phố, Venturi phê bình lối kiến trúc đơn điệu cộc lốc của các
cao ốc mang nặng tính thực dụng của diện tích mặt bằng mà lại bỏ quên tính đa
dạng, sự hài hoà giữa lịch sử cổ điển và văn minh đương đại.
Trong hai tập sách, mặc
dầu không nhắc đến chữ chủ nghĩa hậu hiện đại, nhưng cả hai
tác giả đều đề nghị giới trí thức hiện đại phải có tầm nhìn
vượt lên trên thời hiện đại. Đến năm 1972, những khối nhà cao tầng được xây
dựng từ những năm 50 (do Yamasaki thiết kế và đoạt giải kiến trúc Pruitt-Igoe
về thiết kế nhà ở đô thị hiện đại) tại thành phố St. Louis, Missouri (Miền
Trung Tây Hoa Kỳ) bị giật sập kéo theo sự phá huỷ các cao ốc có lối kiến trúc
tương tự tại các thành phố khác của Mỹ, Gia Nã Đại và Âu Châu trong những năm
tiếp theo, năm 1972 trở thành mốc thời gian cho sự ra đời của chủ nghĩa hậu
hiện đại.
Trong suốt thập niên 60,
danh từ postmodernism được nhiều giới nghệ sĩ, nhà văn và nhà
phê bình như Rauschenberg, Cage, Burroughs, Barthelme, Fielder, Hassan và
Sontag sử dụng để chỉ trích sự cạn kiệt của chủ nghĩa hiện đại và để mô tả
những khuynh hướng nghệ thuật muốn vượt qua những phạm vi giới hạn của chủ nghĩa
đó. Khuynh hướng hậu hiện đại từng bước tạo những ảnh hưởng
rộng lớn hơn, lôi kéo sự bàn luận và chú ý của giới trí thức đại học như Bell,
Kristeva, Lyotard, Vattimo, Derrida, Foucault, Harbemas, Baudrillardd và
Jameson.
Theo Fredric Jameson,
chủ nghĩa hậu hiện đại cũng như chủ nghĩa hiện đại, là những cơ cấu văn hoá, xã
hội, tương ứng với những giai đoạn nhất định của chủ nghĩa tư bản. Jameson đã
chia chủ nghĩa tư bản ra làm ba giai đoạn phát triển căn bản gắn liền với những
hình thái văn hoá đặc thù, để từ đó các ngành nghệ thuật và văn chương được
hình thành một cách tương ứng:
Giai đoạn thứ nhất hay
chủ nghĩa tư bản thị trường xảy ra từ nửa đầu thế kỷ 18 kéo dài đến cuối thế kỷ
thứ 19 tại Tây Âu, Anh Quốc và Hoa Kỳ cùng các quốc gia chịu ảnh hưởng. Giai
đoạn này gắn liền với sự phát triển kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, ví dụ như
động cơ hơi nước và về mỹ học là sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực (realism).
Giai đoạn thứ hai hay
chủ nghĩa tư bản độc quyền, bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 19 cho đến khi Âu Châu
hoàn tất chương trình tái thiết thời hậu chiến (vào khoảng thập niên 1950).
Giai đoạn này tương ứng với sự ra đời của động cơ đốt trong và động cơ điện về
kỹ thuật; về mỹ học là sự hình thành chủ nghĩa hiện đại (modernism).
Giai đoạn thứ ba tức
thời kỳ đương đại chúng ta đang sống, là chủ nghĩa tư bản đa quốc gia mang nặng
yếu tố mở rộng thị trường, buôn bán và tiêu thụ sản phẩm. Về kỹ thuật tương ứng
với sự ra đời năng lượng hạch tâm và kỹ nghệ điện tử. Chủ nghĩa hậu hiện đại
tương ứng với thời kỳ này.
Về phương diện lý
thuyết, chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận những giả định căn bản của chủ nghĩa
hiện đại mà hai yếu tố đóng vai trò chủ đạo cho mọi nền tảng triết lý của nó là Tri
Thức Khách Quan (Objective Knowledge) và Sự Thật Tuyệt Đối (Absolute
Truth). Theo cách nhìn của các triết gia hậu hiện đại, chủ
nghĩa hiện đạiđược xây dựng trên một niềm tin là có một hiện thực khách
quan, tồn tại một cách độc lập với mọi suy nghĩ của chủ thể quan sát, vì vậy
chỉ có một kết quả biểu hiện khách quan duy nhất từ hiện thực: Sự Thật. Phương
tiện để tìm hiểu hiện thực (sự thật) khách quan là Khoa Học và các nhà lý
thuyết của chủ nghĩa hiện đại tin rằng con người có thể tìm ra được sự thật
khách quan của thế giới và vũ trụ. Nhờ vào khoa học, chủ nghĩa hiện đại tin
rằng, trí óc con người có thể có những hoạt động tinh thần để tạo ra tri thức
phản ánh cho một hiện thực khách quan – Tri thức khách quan.
Lý thuyết chủ nghĩa hậu
hiện đại tranh luận rằng những gì chúng ta gọi là Tri Thứcchỉ là
một mẩu chuyện đặc biệt, một dạng văn bản, hay một giải trình ngôn ngữ
(discourse), là sự sắp xếp các từ ngữ, hình ảnh hay ký hiệu, dáng điệu… theo
một cách đặc biệt nhất định nào đó để phù hợp với những lợi ích của một nền văn
hoá, hoặc đôi khi chỉ làm vui tai, vui mắt cho một thành phần nhỏ nhoi có quyền
lực trong nền văn hoá đó. chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận con người có thể có
một Tri Thức Khách Quan vì những gì chúng ta gọi là tri thức
phải được tạo thành từ ngôn ngữ và những nguồn gốc tạo nghĩa khác
tồn tại trong một nền văn hoá nhất định, mỗi nền văn hoá có cách nhìn thế giới
trong những cách khác nhau, những hệ thống hình thành tri thức trong các nền
văn hoá khác nhau như thế hoạt động trên một nguyên tắc đặc thù riêng biệt. Vì
vậy, quan điểm về thế giới và vũ trụ từ nền văn hoá Âu Mỹ xây dựng trên nền
tảng chủ nghĩa hiện đại bị áp đặt để trở thành một quan điểm thống nhất và hằng
định cho toàn thể mọi nền văn hoá trên thế giới, về thực chất là một giả định
có tính chất mưu cầu lợi ích chính trị để đạt được những tham vọng đế quốc
trong quá khứ, nó không tồn tại vững chắc trên cơ sở trí thức.
Chủ nghĩa hậu hiện đại
đi xa hơn để chỉ ra rằng, cũng giống như một số nền văn hoá Âu Châu trong thời
kỳ cận đại đã áp đặt quan điểm của họ lên những nền văn hoá khác bằng vũ lực,
bằng xâm lăng và đô hộ, thì ngay trong các quốc gia “hiện đại” đó cũng có một
thiểu số thuộc giai cấp quyền thế, giai cấp quý tộc cầm quyền chiếm ưu thế bởi
các nhóm nam giới trung niên, đã thống trị và chi phối các dòng tư tưởng “chính
mạch” trong các động hướng xã hội, chính trị, văn hoá và cả đến khoa học tự
nhiên (nếu thực sự có một khoa học khách quan về tự nhiên như thế hằng tồn
tại), làm cho “thế giới quan hiện đại” phát đi từ chủ nghĩa hiện đại tại các
quốc gia đó vốn dĩ đã không khách quan lại càng bị bó hẹp hơn – quan điểm của
giai cấp thống trị.
Như đã đề cập ở phần
trên, Huyssen đã truy nguyên nguồn gốc của chủ nghĩa hậu hiện đại từ các khuynh
hướng kiến trúc, mỹ thuật và phê bình của giới trí thức và nghệ sĩ tại New York
vào thập niên 1960 sau đó được các nhà lý thuyết triết học Âu Châu khai triển
vào thập niên 70, trong số các lý thuyết gia hàng đầu đó (Michel Foucault, Jean
Baudrillard, Kristeva, Bell…) phải kể đến Jean-François Lyotard với cuốn sách
nổi tiếng La Condition Postmoderne xuất hiện tại Paris vào năm
1979, khi cuốn sách này được chuyển dịch sang Anh ngữ vào năm 1984, cùng với
bài luận văn ngắn: “An Answer to the Question: What is Postmoderism?”
đăng trong phần phụ lục, đã trở thành cuốn sách giáo khoa về chủ nghĩa
hậu hiện đại lưu hành phổ biến trong giới đại học của các quốc gia nói
tiếng Anh. Lyotard phê phán nỗ lực tạo ổn định xã hội bằng cách trấn áp sự hỗn
loạn (disorder) của chủ nghĩa hiện đại, ông cho rằng tính chất ổn định xã hội
này trùng hợp với khái niệm toàn thể (totality) của J. Derrida (trong đó
totality tương đương với wholeness, completeness).
Tính toàn thể, tính ổn
định, tính trật tự trong xã hội hiện đại, theo Lyotard, được duy trì thông qua
những thần thoại hợp lý hoá (legitimating myths), hay những đại
tự sự(grand narratives) của thời kỳ hiện đại. Lyotard tấn công vào tính đại
tự sự mà chủ thuyết hiện đại tin rằng sẽ có một quá trình giải phóng nhân loại
để tiến đến sự tiến bộ thông qua khoa học, cùng với ý tưởng triết lý có thể
phục hồi tính thống nhất trong sự tiếp nhận và phát triển một tri thức nhân
loại có giá trị chung cho toàn thế giới (và vũ trụ). Một trong những đối tượng
tấn công của Lyotard vào thời kỳ này là Habermas, người đặt nghi vấn về một
hình thức bảo thủ mới trong lý thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại và hậu cấu
trúc luận (poststructuralism) của Pháp.
Lyotard tranh luận rằng,
tất cả mọi khía cạnh của xã hội hiện đại, bao gồm cả khoa học – hình thức căn
bản của tri thức, hoàn toàn tuỳ thuộc vào những đại tự sự. Theo ông, đại tự sự
là những câu chuyện “có tính cách thần thoại” một nền văn hoá tự kể về niềm tin
và hành động thực tiễn của nó. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, một trong những đại tự sự
về chính trị hiện nay là Dân Chủ và Nhân Quyền, một đại tự
sự mà chính phủ Mỹ cho là chính sách hợp lý và văn minh nhất trong vấn
đề đối ngoại, và dĩ nhiên, người lập ra sách lược này tin rằng nó sẽ làm cho
nhân loại trên thế giới sống hoà bình và hạnh phúc hơn. Có lẽ cho đến nay không
ai trong chúng ta là không tin vào chính sách “hết sức khoa học và hợp lý”
này. Nhưng tuyệt nhiên không ai đặt một dấu hỏi cỏn con nào về mặt thật đằng
sau tính chất đại tự sự ấy của nền văn hoá Mỹ.
Theo quan điểm hậu hiện
đại, mỗi hệ thống đức tin hoặc ý thức hệ, đều chứa đựng những “thần thoại hữu
lý” của nó. Ví dụ, giáo hội Công giáo tin có một thượng đế duy nhất hằng hữu,
bao dung và toàn trị; trong khi đó, những người Mác-xít tin tưởng một cách kiên
trung rằng, một ngày kia chế độ tư bản sẽ tự nó sụp đổ và thế giới xã hội không
tưởng sẽ hình thành; hay Việt Nam ta cũng có đại tự sự: Dân tộc Việt Nam là một
dân tộc anh hùng, đánh thắng ba đế quốc to…
Chủ nghĩa hậu hiện đại
phê phán các hình thức đại tự sự của chủ nghĩa hiện đại bằng cách cảnh báo
rằng, những đại tự sự đó được lạm dụng để che đậy những mặt đối lập và bất định
gắn liền với mọi tổ chức xã hội cũng như mọi thực tiễn hành động. Nói một cách
khác, mọi nỗ lực kiến tạo trật tự và ổn định luôn luôn sản sinh ra một đối lực
tương ứng của hỗn loạn và bất ổn, như hai quá trình song hành trong một thể
thống nhất của hiện thực xã hội. Nhưng, thay vì nhìn những yếu tố “hỗn loạn” và
“bất ổn” đó như một đối trọng có tính cách cân bằng trong nghĩa xây dựng, đại
tự sự của chủ nghĩa hiện đại đã tìm mọi cách đè bẹp với lý lẽ cho rằng sự hỗn
loạn và bất ổn là xấu, là phá hoại, là phản động, cần phải tận diệt, trong khi
đó trật tự và ổn định là luôn luôn tốt, luôn luôn đúng, phù hợp với cách mạng,
hợp lý với khoa học!
Chủ nghĩa hậu hiện đại
phủ nhận tính chất đô hộ và áp đặt của đại tự sự, cổ xuý những tiểu tự sự,
những lý lẽ giải thích cho những hành động nhỏ bé, những biến cố có tính chất
địa phương thay vì những khái niệm rộng lớn có tính cách bao quát và toàn thể.
Những tiểu tự sự của chủ nghĩa hậu hiện đại thường được nhìn dưới góc độ hoàn
cảnh tạm thời, ngẫu nhiên, không tuyên xưng tính thống nhất toàn thể, tính ổn
định, tính hợp lý, hay sự thật khách quan.
Đối với chủ nghĩa hậu
hiện đại, mọi sự thật vĩnh hằng và trường cửu sẽ biến mất, mang theo nó những
quy định về ngôn ngữ của cái biểu đạt (signifier/signifiant) và cái được biểu
đạt (signified/signifié), thay vào đó là những biểu hiện bề mặt không cần có
bản chất, như Foucault đã chỉ ra bản
chất của lịch sử, trong đó ông cho rằng, sử gia tái tạo lịch sử là một công
việc hão huyền, nếu không muốn nói là sự đánh lừa công chúng một cách ấu trĩ,
vì, giải trình ngôn ngữ lịch sử là một giải trình ngôn ngữ hiện tại, phục vụ
cho hiện tại, tạo ra một ý nghĩa nào đó cho con người hôm nay, có một hiểu biết
nào đó, về những dấu tích khảo cổ để lại từ những sinh hoạt mà nhân loại thu
lượm được từ quá khứ.
Từ lý luận về giải trình
ngôn ngữ lịch sử, Foucault đã đi sâu hơn về khái niệm giải trình ngôn
ngữ (discourse), ông viết một chương dài bàn luận về vai trò của khái
niệm này, nó không phải chỉ đặc trưng cho chức năng ngôn ngữ, mà tất cả những
gì con người có thể làm để tạo nghĩa về thế giới. Foucault đã chứng minh rằng,
những hiện thực khách quan, những đối tượng nghiên cứu khoa học của
chủ nghĩa hiện đại, như những ý niệm (thực thể) của bản ngã, quốc gia, ngôn
ngữ, trí tuệ, giới tính, tội phạm, những định chuẩn tự nhiên, vân vân, thực
chất là những cấu trúc đặc thù của lịch sử, hay sản phẩm của lịch sử, không
thuộc về đối tượng của giải trình ngôn ngữ nhân loại.
Ông chú ý đến cái gọi là khoa
học hiện tượng để tìm ý nghĩa thông qua giải trình ngôn ngữ, từ đó
nghiên cứu những phương pháp lý thuyết của quá trình tạo nghĩa bởi sự tương tác
giữa con người và giải trình ngôn ngữ đối với sự vật. Với giải trình ngôn ngữ
của Foucault hay "trò chơi ngôn ngữ" (language game) của Wittgenstein
(J. F. Lyotard khai triển thêm), chủ nghĩa hậu hiện đại đã bước hẳn sang một
ngã rẽ khác trong quá trình quan sát và tạo nghĩa, một quá trình hoàn toàn loại
trừ khái niệmcái biểu đạt và cái được biểu đạt của chủ nghĩa hiện
đại để tập trung xây dựng một cách diễn đạt ý nghĩa mới về thế giới và vũ trụ.
Trong giải trình ngôn
ngữ hậu hiện đại, sự phân tích ngôn ngữ là một sự áp dụng ngữ nghĩa học
(semantics) vào một văn bản thuần tuý, không tìm những ý nghĩa ẩn tàng sau
những cách sử dụng cú pháp, văn phạm và tu từ như được nhấn mạnh trong chủ
nghĩa hiện đại. Thay vào đó là sự chú tâm đến những quy ước văn hoá của ngôn
ngữ, do đó đòi hỏi sự tìm hiểu ngôn ngữ xuất phát từ xã hội hơn là xuất phát từ
ý thức.
Chúng ta không thể nào
phân tích một cách đầy đủ quá trình thụ nhận tri thức của một cá nhân từ ngôn
ngữ nếu chúng ta không hề hay biết đến kiểu mẫu giải trình ngôn ngữ của cộng đồng
cá nhân đó đang lệ thuộc. Giải trình ngôn ngữ của chủ nghĩa hậu hiện đại đặt
nền tảng trên nguyên tắc liên văn bản (intertextuality), bất
chấp giải trình đó là ngoại biểu hay nội biểu; nói cách khác, mọi ý nghĩa được
tạo nên phải dựa vào căn bản một ý nghĩa khác đã được thành lập trước đó và
chia sẻ bởi cộng đồng, rộng hơn, của nền văn hoá cộng đồng đó phụ thuộc.
Trong giải trình ngôn ngữ
của chủ nghĩa hậu hiện đại, có hai tên tuổi lớn luôn được nhắc đến: Foucault và
Bakhtin. Bakhtin và Foucault quan niệm rằng, giải trình ngôn ngữ là một quá
trình hành động để tạo nghĩa, mà đơn vị giải trình của nó là đơn vị ý nghĩa
hoặc một hành động của con người để diễn tả ý nghĩa chứ không phải những đơn vị
của ngôn ngữ như ngôn, từ, mệnh đề, câu… Giải trình ngôn ngữ có thể tạo nghĩa
từ những điệu luân vũ, dáng điệu, chuyển động; với hình ảnh, biểu đồ, bài hát,
hay ngay cả với thực phẩm và quần áo.
Lấy ví dụ, trong khoa
học, chúng ta không phải chỉ viết và nói, chúng ta còn sử dụng rất nhiều phương
pháp khác nhau để xây dựng những ý nghĩa đặc thù cho mỗi ngành khoa học, những
phương pháp đó bao gồm việc quan sát các hiện tượng xảy ra khi tiến hành một
thực nghiệm sinh hoá học, ghi nhận và phân tích dữ kiện, hoặc trong kinh tế,
các chuyên gia thường chú ý đến các biểu đồ lên xuống của tiền tệ, hối đoái,
trong xã hội người ta lại tìm kiếm các số liệu người thất nghiệp, người có việc
làm, tỉ lệ tội phạm, hoặc thăm dò các khuynh hướng chính trị của một nhóm chủng
tộc nào đó… (ví dụ sẽ còn rất nhiều, chỉ xin đơn cử một số để minh họa).
Trong mỗi lãnh vực riêng
biệt đều có một hệ thống ký hiệu quy ước mà cộng đồng chấp nhận, và giải trình
ngôn ngữ là sự ứng dụng các hệ thống ký hiệu để tạo nghĩa về một hiện tượng,
một vật thể hay rộng hơn về thế giới. Ký hiệu học hậu hiện đại nhấn
mạnh đến sự giải trình ngôn ngữ về tạo vật hay hiện tượng tức là cách chúng ta
nhìn sự vật và hiện tượng như thế nào, chứ không phải hiện tượng và sự vật được
mô tả như thế nào bằng giải trình ngôn ngữ.
Chủ nghĩa hậu hiện đại
hoàn toàn không đề cập đến bản chất hiện tượng đó, hay nói theo ngôn ngữ của
chủ nghĩa hiện đại, Sự Thật đằng sau hiện tượng. Như đã đề cập
phần trên, hiện tượng chúng ta quan sát và tạo nghĩa bằng giải trình ngôn ngữ,
là một quá trình so sánh liên văn bản kéo dài đến bất tận, nên
chúng ta không tài nào biết được đâu là nguồn gốc của ý nghĩa, đâu là sự thật
của ý nghĩa đó. Một quá trình mà Baudrillard cho là sự sao chép giả tạo
(simulation).
Khái niệm căn bản cho lý
thuyết hiện tượng học của Baudrillard là Vật thể giả tạo(Simulacrum). Simulacrum là
một hiện tượng mà bản chất của nó hoàn toàn bị che dấu nên không còn mang tính
chất hiện thực và chúng ta cảm nhận được thế giới là nhờ giải trình ngôn ngữ
trên các hiện tượng “giả tạo” đó. Vì vậy, Sự Thật mà chủ nghĩa
hiện đại tìm thấy ở vật thể và thế giới thực ra là những hình ảnh giả tạo, Simulacrum.
Nguyễn Minh Quân