4/10/12
Đường nét trong bố cục
Lại Hữu Đức
trích Ảnh Nghệ thuật tập I (Sài Gòn, 1971)
Khi
đề cập đến bố cục là nói đến đường nét, vậy chúng ta thử tìm hiểu và
phân tách vai trò quan trọng của đường nét trong bố cục để xây dựng tác phẩm.
Như chúng ta đã thấy, ánh sáng chiếu vào những hình
thể trong vũ trụ, tạo nên đường nét. Đường nét có thể là đen, là trắng, là xám,
cũng có thể to hoặc nhỏ và không bắt buộc phải liên tục. Tùy theo tính chất và vị trí
của đường nét, tùy theo những đường viền kết hợp thành nó, nên đường nét có thể
làm rung cảm tâm hồn và tạo những nguồn cảm xúc khác nhau.
Đường
nét là căn bản xây dựng nội tâm của ảnh : thẳng, cong hay gẫy khúc, nó có thể
cho nhìn thấy hoặc cụ-thể-hóa ra, hoặc gợi ra (trong phong cảnh không có đường
nét lớn để lấy làm chính thì sự liên lạc hữu hình hoặc vô hình là đường nét
chính) cho người xem. Đưòng nét có thể là ngang, là dọc, là chéo.
Đường nét có thể đặt theo những nhịp điệu có nhiều tương ứng với chúng ta, bởi
vì nó bắt nguồn từ những sự biểu lộ tự nhiên và nó lược-đồ-hóa sức mạnh ấy tùy
thuộc loại hình ảnh trình bày không thay đổi từ ngàn xưa.
Sự
cân xứng của ảnh phần chính nằm trong sự tương hợp giữa những đường nét và
những mảng đậm lợt. Vì cân xứng không có nghĩa là cân đối nên người ta xếp bố
cục bằng hai cách:
1/ Bố cục cân đối
2/ Bố cục không cân đối
2/ Bố cục không cân đối
Bố cục cân đối
Cân đối là sự phù hợp về kích thước, về tương xứng
của những phần khác nhau của cơ thể và tương xứng của những phần ấy với toàn
cục. Kết quả là một tổng hợp điều hòa tẻ nhạt về hình thức mà những tương xứng
phối hợp lại một cách đều đặn.
Sự cân đối là căn bản của kiến trúc. Những nghệ sĩ
thời cổ thường dùng nó để khai diễn những đề tài tôn giáo, những hình thái khắt
khe, cứng rắn một cách trang trọng. Người ta thường dùng nó cho những ảnh về
lâu đài, nhà thờ v.v...
Đường dọc là đường chế ngự trong bố cục cân đối, và
bố cục cân đối là một cách bố cục đầy đặc tính trang trọng. Nó có thể giảm đi.
Nếu bố cục theo hình tam giác thì nó sẽ có sự linh động phần nào trong toàn
thể.
Bố cục cân đối đưa đến sự tẻ nhạt, ít gợi cảm, càng
tránh được càng tốt. Tuy nhiên có khi người ta muốn nghịch ngợm, dùng cách bố
cục cân đối để nhạo cổ điển.
Bố cục không cân đối
Bố cục không cân đối là nguồn cảm hứng phóng khoáng của nghệ sĩ.
Nó không có luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng trong ký ức thẩm mỹ của tác
giả. Đối với loại bố cục này ta phải chú ý đến sự cân xứng, nó có liên hệ chặt
chẽ với phép phối cảnh.
Đường
nét là nền tảng của bố cục nên nhờ nó mà ta tìm cảm hứng và dùng nó làm địa bàn
đi tìm trọng tâm ( cùng nghĩa là chủ điểm ) và sự cân xứng của ảnh.
Nhưng
nếu khai diễn sắc thái của đường nét, ta sẽ thấy bố cục của cách bố cục không
cân đối. Trong lãnh vực đó người nghệ sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn
bởi vì những đường tạo ra trong lúc cảm hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây
dựng đề tài mà mình muốn và gợi ý ra những trạng thái nó đưa đến bố cục chót.
Đường nét là yếu tố sáng tác của nghệ sĩ, nhưng khi
không đạt được sự gợi cảm, thì dùng đường nét chỉ là đường nét mà không là nghệ
thuật. Có nhiều cách bố cục, nhưng có một cách giản dị là bố cục theo mẫu chữ
cái.
Mỗi
một chữ theo bản thể của nó là một bố cục đồ bản trên một diện tích trắng hay
là trong không gian. Có một số chữ theo với bố cục đồ bản trội hơn những chữ
khác. Nhưng phần nhiều những chữ được áp dụng là những chữ giản dị trong sự
không cân đối của nó : G, Z, J, C, S, U, L, I, v.v...
Trong
bố cục không cân đối, nên tránh để chân trời chia ảnh ra làm hai phần bằng
nhau, phần trời và phần đất đều nhau sẽ không làm cho ta chú ý đến phần nào và
mắt cứ đưa từ phần này qua phần khác. (Trong một vài trường hợp cũng có thể để
chân trời ở giữa tùy theo sự suy diễn của tác giả.)
Trong phong cảnh để chân trời ở 1/3 trên hoặc ở 1/3
dưới tùy theo tác giả muốn đặt phần quan trọng diễn tả ở phần trên hay phần
dưới: như muốn tả về trời, về mây thì để chân trời ở 1/3 dưới, còn nếu muốn
nhấn mạnh về cảnh mặt nước, cảnh trên mặt đất thì để đường chân trời ở 1/3
trên.
Sự gợi cảm bằng đường nét
a/ Sự phù hợp giữa đường nét và tâm hồn :
Ta phải tập nhìn ra đường nét ngay lúc đóng khung
cho ảnh để chụp để có thể áp dụng những quy tắc bố cục. Có bốn loại đường nét
thường dùng trong bố cục :
- Đường ngang
- Đường dọc
- Đường chéo
- Đường cong
- Đường dọc
- Đường chéo
- Đường cong
Những loại đường này có thể dùng riêng biệt hoặc
phối hợp tùy theo loại và tùy theo chủ đề của ảnh.
Làm sao những đường nét chỉ có hình thức trừu tượng
mà lại có mãnh lực rung cảm?
Nếu chúng ta nghiên cứu một số những tác phẩm hội
họa thì ta thấy bố cục của những họa sĩ danh tiếng thường đặt căn bản trên vài
hình thức kỷ-hà-học. Không phải chỉ có hội họa mà còn cái gì do người tạo ra
đều tìm đến hình thức sắp xếp của Kỷ-hà-học vì nhãn quan của người ta đã bị
giáo dục theo cái cân xứng sắp xếp đó, vô tình chúng ta đã tìm những đường mạnh
của bố cục để căn cứ vào đó mà suy tưởng và cảm xúc.
Bố cục của vũ trụ đặt căn bản trên hình thức
kỷ-hà-học nên làm cho cảm giác chúng ta bị những hình thức kỷ hà ăn sâu và chi
phối. Thí dụ khi nói đến kim-tự-tháp Ai-Cập là ta nghĩ ngay đến hình chóp bốn
góc, khi nói đến nhà thờ ta nghĩ ngay đến tháp chuông cao vút với vẻ uy nghi.
Như vậy là có sự liên quan chặt chẽ giữa sự xây dựng
đường nét của ảnh với sự truyền cảm của tâm hồn. Nếu ta chú ý đến sự phù hợp đó
ta sẽ kiểm điểm được bố cục của ta.
b/ Ngôn ngữ rung cảm của đường nét :
Ta nhận thấy những loại đường nét gợi cho trí óc
chúng ta cái cảm tưởng khá rõ ràng để nhận định cái ý nghĩa riêng biệt của nó.
Cũng đôi khi cái cảm tưởng đó vượt khỏi tầm phân tách của ta.
Những sự phù hợp sẵn có giữa đường nét và cảm giác
đã được nghiên cứu kỹ càng và được dùng cho bộ môn kiến trúc và trang trí, thì
người nhiếp ảnh chúng ta cũng có thể áp dụng nó được.
Như vậy ta có thể khái niệm rằng: đường thẳng có nghĩa riêng là phù hợp với nghị lực
và bền bỉ biểu lộ sự cương quyết mà đường
cong không có được , vì nó
chỉ có thể gợi cho ta ý mềm dẻo, yếu đuối và kết tụ. Đường cong cũng thuận cho
cách gợi ra đều đặn, quý phái mà khi ngắm đường gẫy khúc không thể có được. Đường gẫy khúc khi cứ kéo dài mãi thì với sự chập
chờn và run rẩy của nó cho ta cảm tưởng linh động.
Nhưng đường nét lại còn cho ta nhiều cảm tưởng đặc
biệt tùy theo vị trí của nó và cách xếp đặt. Ai lại không biết là đường ngang gợi cảm giác bình thản, buồn bã biểu
lộ sự lâu dài. Trái lại đường dọc gợi
cho cảm giác sôi nổi và phát sinh ra cảm tưởng trang nghiêm, cao quý.
Chúng ta chợt có những cảm giác lạ khi ta ngắm đường
ngang mặt biển trải rộng mênh mông hầu như vô tận trước tầm mắt chúng ta, hay
khi ngắm cây tháp cao vút của ngôi giáo đường, ta thấy lân lâng lên mãi như dễ
đụng tới từng mây.
Những cảm giác đó tăng độ lực và phát hiện với những
đường lập đi lập lại và giảm bới đi khi có những đường nghịch với nó.
Góc cạnh là do sự gặp nhau của hai đường hội tụ mà
thành và gợi cho những cảm giác do đường nghiêng nghiêng của cạnh.
Góc cạnh càng thu hẹp thì cảm tưởng càng nhiều và
giống như cảm tưởng phát sinh bởi cái ngắn của đường dọc.
Góc cạnh càng mở rộng cảm giác có thể gần gũi đến
lẫn lộn với cái ngắn của đường ngang.
Như thế những đường của hình chóp và hình tam giác
cho ta ý niệm lạ, lâu dài,, bền bỉ, vững vàng. Tùy theo hình dáng cân xứng của
hình tam giác mà ta sẽ thấy hợp với đường ngang hay với đường dọc: hình tam
giác cạnh dưới (đáy) hẹp và mỏng mảnh sẽ thoảng thấy như đường dọc. Hình tam
giác cạnh dưới (đáy) rộng sẽ thấy như đường ngang.
Hình tam giác gợi cảm giác vững chắc và sống động mà
khi thêm vào đó những đường chéo sẽ cho cảm tưởng hoạt động và nhịp nhàng.
Đường hội tụ cũng có thể gợi cho ta sự thoát ra, sự vô tận. Tùy theo vị trí của điểm
tụ mà những đường đó cho ta cảm tưởng đi lên hay cảm tưởng về chiều sâu.
Đường chéo gợi sự hoạt động, tốc độ. Nếu bắt chéo
nhau, nó biểu lộ sự lẫn lộn, sự không thăng bằng, sự hằng hà sa số. Nếu nó vượt
khỏi một điểm thì đó là phóng ra, là tia ra, là đụng chạm và là bạo hành. Nếu
nó được phân chia đều đặn, nó cho ta cảm giác vững vàng.
Đường cong cũng không có được tính chất rõ ràng như đường thẳng. Ta cũng thấy những
đường cong rất mỹ miều hấp dẫn như trong thế giới thảo mộc, trong thế giới động
vật lúc còn nhỏ và nó mất dần đi khi cằn cỗi già nua, và cũng như thấy đường
cong đậm tính chất uy nghi gần nghĩa điều hòa khi nó mô tả đạn đạo vòng cầu.
Đường cong dùng để nối liền những yếu tố trong bố
cục và ráp lại những phần trong bố cục. Vì sự quan trọng của nó nên trong nhiều
trường hợp nếu thiếu nó thì bố cục không thành.
Raymond Firth – Các biểu tượng trong nghệ thuật
Các quá trình tương tự việc tìm kiếm những biểu tượng và các thảo
luận về chúng rất quan trọng trong nghiên cứu về hội họa và những loại hình
nghệ thuật tạo hình khác. Việc diễn giải đặc tính các biểu tượng của nghệ thuật
Cơ-đốc giáo giai đoạn đầu thời kỳ Trung Cổ ở Tây Âu có thể được sử dụng như một
minh họa, vì bản thân nó thiếu đi sự quan tâm về tính cân xứng tự nhiên và mối
quan hệ trực tiếp của nó với nghi lễ và niềm tin đem tới sự tương đồng với nghệ
thuật ‘nguyên thủy’ được nghiên cứu bởi các nhà nhân học.
Nhà thờ trong thời kỳ Trung Cổ luôn bị ám ảnh bởi biểu tượng luận.
Trong việc xây dựng nhà thờ, bản thân nó đã được tạo ra trong cấu trúc thể hiện
cơ thể con người, thánh đường chính là cái đầu và cung ngang trong nhà thờ
chính là những cánh tay. Nhưng nó cũng thể hiện cho Cây thánh giá của chúa
Giê-su…và nhiều cái khác nữa (Dunbar, 1929, 403-4). Hội họa kiểu Roman (vòm
tròn và tường dày) và điêu khắc đã thể hiện những hình hài của chúng với phần
quan trọng nhất để minh họa những bối cảnh trong Kinh thánh. Nhưng những điều
này không đơn giản chỉ là những sựchuyển ngữ (translations) lên
tường hoặc đá về những câu chuyện đã được viết cho những người mù chữ không
biết đọc; mà chúng còn là một phương tiện để chuyển tải những thông điệp về ý
nghĩa nội dung nói chung. Những bối cảnh trong kinh Cựu ước được dùng để mô tả
trước những sự kiện trong kinh Tân ước; các con vật cũng như con người được
biểu tượng hóa thành phẩm chất trừu tượng hoặc những sức mạnh tinh thần. Lấy ví
dụ về hình ảnh của Sư tử. Trái ngược với con báo, con vật hiếm khi xuất hiện
trong nghệ thuật điêu khắc thời trung cổ, là biểu tượng của sự tàn ác, tội lỗi
của những kẻ chống Giê-su, Ma quỷ, hình ảnh con sư tử rất phổ biến và đại diện
chung của một nguồn gốc quý tộc. (Sau này tôi sẽ bàn luận về tầm quan trọng của
Samson trong việc hủy hoại sư tử). Theo những câu chuyện ngụ ngôn về động vật,
con sử tử được xem như là chúa tể của muôn loài, mạnh mẽ và đầy lòng trắc ẩn
(Camerarius, 1668, II, 13). Khi thể hiện các trận đánh được với một con rồng
hoặc con rắn (như trên mộ của Percy ở Beverlay hoặc ở tai giữa trong nhà thờ
Lieding ở Carinthia), nó đã miêu tả sức mạnh của điều tốt đang chiến đấu với
điều xấu xa. Trong những câu chuyện ngụ ngôn, con sư tử có ba đặc điểm quan
trọng, dù được tạo bởi trí tưởng tượng, là sự hư cấu của những người giảng kinh
Cơ-đốc trong các khía cạnh biểu tượng. Con sư tử được cho rằng nó ngủ mà không
nhắm mắt, và vì vậy nó có thể đại diện cho sự cảnh giác, theo một vài quan điểm
nó là một người bảo vệ phù hợp ở những cánh cửa của nhà thờ, và do đó xuất hiện
rất nhiều trên các cột trụ.[1] Đặc
biệt, nó là một hình ảnh của Chúa Giê-su (Con sư tử của Bộ lạc Judah) người
được đánh thức trong đêm tại ngôi mộ chờ đợi sự hồi sinh của người. Con sư tử
là điển hình cho sự hồi sinh của chúa Giê-su theo cách khác. Người ta cho rằng
những con sử tử con sinh ra bị chết, nhưng được trông nom bởi những người
mẹ của chúng trong ba ngày, sau thời gian đó cha của chúng tới và truyền hơi
thở cho chúng, vì vậy chúng đã sống lại. (Một người đứng đầu ở nhà thờ lớn
Canterbury đã minh họa chủ đề này). Một lần nữa, nó được cho rằng khi bị truy
đuổi, con sử tử đã xóa sạch những dấu chân của nó, mùi hơi của nó, vết lướt đi
trên mặt đất theo đuôi của nó - vì vậy đã biểu tượng hóa hình ảnh chúa Giê-su
che dấu Đấng tối cao trong dạ con của Đức mẹ đồng trinh. (T.H.White, 1960- 7-
II).
Nhưng những giải thích đã được biến đổi tùy theo hoàn cảnh. Khi
Samson (người có sức khỏe phi thường-ND) được mô tả trong thuật điêu khắc Roman
đã vượt qua tất cả chỉ với hai bàn tay của anh ta chú sư tử con gầm rống chống
lại anh ta (Judges 14:5) kỳ tích về sự can đảm và mạnh mẽ đã được đưa ra nhiều
ý nghĩa mang tính biểu tượng mà ở đó Samson chủ yếu đại diện cho Chúa Giê-su và
con sư tử chính là Ác quỷ (Cách hiểu này được củng cố ở Psalm 91:13, bằng cách
này những người ngoan đạo sẽ đạp con sư tử dưới chân).
Trong rất nhiều mô tả điêu khắc về chủ đề này,[2] một
trong những tác phẩm sinh động nhất và đem lại sự thỏa mãn về mặt thẩm mỹ nhất
đó chính là bức điêu khắc ở bình phong (tympanum) của nhà thờ lớn Gurk,
Carinthia. Samson, với mái tóc dài và mặc trên mình chiếc áo choàng không tay,
mạnh mẽ hơn hẳn con sư tử. Đó là sự hoà hợp tuyệt vời về mặt thẩm mỹ với các
đường nét lướt đi, sự cân bằng của hình khối và những trang trí nhắc lại của
những phác họa. Bức điêu khắc đã đem đến một ấn tượng đầy sức sống, sức mạnh
được ngưng lại trong giây lát khi Samson mở hai quai hàm của con sư tử và chuẩn
bị xé chúng ra từng mảnh trong khi hai sứ giả hoà bình (doves) quá đỗi ngạc
nhiên đứng chờ ở hai bên. Sự kết hợp giữa các đặc tính nghệ thuật với những giá
trị tôn giáo đã hướng tới sự duy trì mối quan tâm về đặc điểm biểu tượng của
bức điêu khắc. Sau đó vào giữa năm 1971, cách đó 800 năm sau những hình ảnh bị
tàn phá, tôi đã nghe một sự diễn giải đầy thông tin và giàu cảm thông của một
sinh viên trẻ, giới thiệu rằng Samson đại diện cho Đấng cứu thế (Saviour)
của chúng ta; các sứ giả hòa bình chính là những linh hồn đang chờ được giải
cứu khỏi Ác quỷ, con sư tử, nếu không nó sẽ ăn sống nuốt tươi họ; chiếc áo
choàng bay ra khỏi đôi vai của Samson thể hiện cho sức mạnh, của Đấng cứu thế.
Đây là sự phát triển chủ đề và biểu tượng luận tiếp theo. Câu chuyện về Samson
trong kinh Cựu ước đã biểu tượng không chỉ nói đến sự khoẻ mạnh mà còn cho sức
mạnh của đức hạnh - một sức mạnh đã bị mất khi đức hạnh bị cám dỗ về sau. Biểu
tượng về sức mạnh chính là tóc của Samson, đã không được cắt từ khi anh còn trẻ
(xem trong chương 8) nhưng ý nghĩa đặc biệt của nó đã được kéo dài tới chiếc áo
choàng, cũng bay tung một cách tự do quanh người. Và sự thể hiện tính biểu
tượng về sự mạnh mẽ thông qua đức hạnh của một con người lại một lần nữa được
sử dụng để biểu tượng hóa sức mạnh tinh thần của những tín đồ cực ngoan đạo -
càng ít biểu tượng hóa càng có ý nghĩa hơn.
Biểu tượng luận của thể loại phức tạp này đã mang đến một nền tảng
quan trọng cho sự phát triển của hình mẫu biểu tượng trong tôn giáo và nghệ
thuật Tây Âu trong vài thế kỷ, và như những gì tôi đã chỉ ra, ảnh hưởng của nó
không hoàn toàn biến mất. Nhưng nghiên cứu về thể loại này dựa trên những khám
phá về mặt tư liệu, làm cho nội dung thêm phong phú và cuốn hút và hệ tư tưởng
liên đới, một cặp quan điểm với nhiều mối quan tâm về phương pháp luận. Một cái
gì đó như việc tìm hiểu về các biểu tượng, hiển nhiên có tác động ở thời Trung
cổ giống như ngày nay - một sự tìm kiếm về một vài mô tả cụ thể cho những gì
không có chứng cứ với các bối cảnh nhưng được cảm thấy là có ý nghĩa lớn lao.
Một quan điểm khác về cái khó trong việc chuyển đổi biểu tượng - về sự
chắc chắn rằng đối tượng được tạo ra hoặc được lựa chọn bởi ai đó giống như một
biểu tượng được nhận diện bởi những người khác có cùng ý nghĩa biểu tượng. Sự
khó khăn này tăng lên khi thậm chí khi người tạo ra biểu tượng đặt nó một cách
có chủ ý, kéo dài từ cái chết của anh ta và việc không thể kiểm chứng về những
suy luận giống với mục đích của anh ta. Và nó tồn tại trong một dạng khác khi
sự kết tội là của biểu tượng luận vô thức, điều này cần có thêm những bằng
chứng thận trọng nhất phụ trợ cho việc bào chữa. Đó cũng là bằng chứng
cho thấy rằng các họa sĩ và nhà điêu khắc thời trung cổ giành tâm huyết vào
những tác phẩm của họ nhiều hơn là việc minh họa; điều này được thể hiện rõ
ràng từ những câu chuyên ngụ ngôn cho tới những tài liệu ghi chép về thần học
đương thời. Nhưng liệu rằng những sự diễn giải hiện đại của chúng ta về biểu
tượng luận, hoặc thậm chí những sự diễn giải đương thời của các tu sĩ, mục sư
có thực sự phù hợp với những gì các họa sĩ và các thợ thủ công muốn thể hiện,
dường như đây vẫn còn là một câu hỏi mở. Như Paul Frank chỉ ra rằng, trong hội
họa và điêu khắc ý nghĩa biểu tượng của những sự diễn giải thường đều đã được
thể hiện trong những sáng tạo của họ; trong kiến trúc; tuy nhiên, nó được đọc
sau khi tác phẩm hình thành. Chẳng hạn, trong tác phẩm Suger, Abbot
of St Denis, đã bỏ qua những cân nhắc về mặt cấu trúc, đã tranh luận rằng trong
một nhà thờ thường có 12 chiếc cột, điều này biểu thị cho các Tông đồ của
Giê-su. Lại nữa, trong biểu tượng luận về nhà thờ, cổng chính được biểu thị cho
ý nghĩa về chúa Giê-su, bởi vì chúa Giê-su là con đường để đi tới Thượng đế,
nhưng thực ra tất cả các nhà thờ đều phải có cửa (Frank, 1960, 213).
Theo quan điểm của tôi, hội họa thời trung cổ đã đưa ra những so
sánh rõ rệt cho nghiên cứu về mặt nhân học. Ở đó thế giới được tạo ra trước khi
có sự công nghiệp hóa dựa trên máy móc, với sự nhấn mạnh nhiều hơn ngày nay về
các mối quan hệ xã hội theo đặc điểm cá nhân hoá. Nhiều tác phẩm nghệ thuật
được quan tâm về các khái niệm phục vụ trực tiếp cho lĩnh vực tôn giáo. Hơn thế
nữa, trong các xã hội ‘nguyên thủy’ thuộc lĩnh vực kinh điển của nhà nhân học,
người sản xuất và người tiêu dùng các tác phẩm nghệ thuật đã chia sẻ một cách
rộng rãi những hệ giá trị tương đồng và những sự diễn giải về những hình ảnh
biểu tượng được tạo ra. Những giá trị biểu tượng của nghệ thuật không được đề
cập một cách xa lạ với gì trong xã hội - ngoại trừ một chừng mực về những ý tưởng
sinh động để chia sẻ, bao gồm cả những nghệ sĩ, được tin là cũng chia sẻ, nhưng
không đủ khả năng để đạt tới mức không cần sự hỗ trợ của siêu nhiên.
Sự thừa nhận công khai của trào lưu biểu tượng trong nghệ thuật ở
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX diễn ra theo các mức độ rất khác nhau. Chúng
không phải chỉ lấy cảm hứng chủ yếu trong lĩnh vực tôn giáo. Rất lỏng lẻo,
chúng có thể được nhìn nhận như một phần sự bác bỏ thành tựu của những gì mà
tiến bộ kỹ thuật đạt được trong các lĩnh vực nghệ thuật mà ở đó chúng là mối
bận tâm của các nghệ sỹ thời Phục hưng, và một mong muốn tìm kiếm thành tựu
trong những phương diện khác cho dù ít bị ngáng trở hơn so với những tưởng
tượng mang tính sáng tạo. Cả kỷ luật nghiêm khắc của những người theo Trường
phái ấn tượng được dùng thông qua lăng kính trong tranh ánh sáng (painting
of light) và sự phân tích cấu trúc của một Cézanne** đều
xa lạ với họ. Ở đó có một nhân tố được rút ra từ chủ nghĩa thực chứng, nó đã
tìm kiếm cách mô tả thực tế khách quan; một tìm tòi về cách thể hiện sự thật ẩn
đằng sau những diện mạo có thể nhìn thấy bên ngoài. Ở đó cũng có sự nhấn mạnh
về mặt xã hội - những phê bình công khai hoặc ẩn ý về vấn đề xã hội của tầng
lớp trung lưu thành thị bao quanh các nghệ sĩ; và ở Pháp phản ứng phá phách các
sự kiện chính trị như ở cuộc chiến Franco - Prussian năm 1870. Được dẫn đầu bởi
Odilon Redon và Gustave Moreau, cùng với những người khác như Puvis de Chavanes
và Paul Gauguin được liên kết một cách lỏng lẻo, các họa sĩ đã nhấn mạnh các
yếu tố tư tưởng và chủ quan trong tác phẩm của họ. Họ đã cố gắng đưa ra một giá
trị cảm xúc đối với việc sử dụng màu sắc của họ, mà qua đó họ thực hiện
ít phép phân tích hơn những người theo Trường phái ấn tượng đã làm. Họ cũng
nhận thấy một đặc tính biểu tượng trong nét phác màu đen*** được
vạch ra, ví dụ như trong tác phẩm Le Christ Jaune của Gauguin
- hoặc trong những tác phẩm sau này của Rouault.
Những sự phát triển trong thế kỷ XIX thậm chí đã trở nên phức tạp
hơn, khi sự chú ý được tập trung mạnh hơn vào ý nghĩa của những lĩnh vực khác
hơn là mô tả trong sáng hoặc những giá trị “tự nhiên” của nghệ thuật. Ở
Anh, một bút ký triết học được đưa ra bởi R.G.Collingwood (1925, 27-8, 96), qua
các thành ngữ truyền thống ông đã nhận thấy nghệ thuật mưu cầu cái đẹp, điều
này đã được ông xác định như sự kết nối tưởng tượng, nhưng đề cập đến sự kết
nối này như là sự khác biệt về chất lượng từ sự kết nối của đối tượng suy nghĩ.
Trong quan điểm của ông, nó là một sự nhận thức trực tiếp hoặc trực giác về các
mối quan hệ giữa các phần của đối tượng, liên quan tới một ‘thị hiếu biểu
tượng’ nó là một ‘dự cảm’ của sự thật chắc chắn sẽ đạt được thông qua khoa học
và triết học. Không lệ thuộc và các công thức của các nhà triết học, rất nhiều
nghệ sĩ, với những mục tiêu và phong cách khác nhau, đang làm việc theo những
hướng có liên hệ rộng khắp với sự diễn giải. Một vài cố gắng thông thường mô tả
biểu tượng sinh động về đạo lý dân tộc hoặc các hình thức duy tâm khác. Nhưng
với người nghiêm khắc, khắc khổ hơn hoặc cả quyết hơn dường như càng thúc đẩy
các nghệ sĩ, cho dù trọng tâm nhấn mạnh của họ nằm ở sự trừu tượng - sự mô tả
về ‘thế giới phi vật thể,’ dựa trên những cách nhìn của bản thân người nghệ sĩ;
hoặc dựa trên những hình mẫu biểu tượng để đưa ra những nguyên lý cơ bản về bản
chất và sự tồn tại của con người. Chẳng hạn như, tác phẩm của các họa sĩ thuộc
nhóm ‘Brucke’ được đặc trưng bởi ‘không khí bi kịch trong phạm vi xã
hội, một sự phân chia của cái tôi trong phạm vi cá nhân; sự nghiền ngẫm nổi dậy
chống lại sự sai trái; đạo đức hạn hẹp hoặc sự mê muội, hầu hết là chủ nghĩa cá
nhân tôn giáo: đây chính là những điểm cốt yếu của trường phái ấn tượng Đức
(Thoene, 1938, 49). Nhiều nghệ sĩ theo nhóm ‘Blaue Reiter’ sau này, tuy
nhiên, nhiều tác phẩm và những chuẩn mực khác nhau của họ, cũng có những quan
điểm chặt chẽ về sự thay thế bản chất của thế giới thay cho diện mạo bên ngoài
của nó. Những người phá hủy thông lệ, có ý định bộc lộ‘tiềm ẩn đằng sau sự tồn
tại,’ họ tự cho là những người không bác bỏ tự nhiên mà là vượt qua và làm sáng
tỏ nó. Họ đang cố gắng, như Franz Marc đã viết, để ‘tạo ra những biểu tượng có
thể đưa họ lên những vị trí được tôn thờ của sự sùng bái trí tuệ trong tương
lai,’ hoặc ‘tạo ra những biểu tượng đảm bảo’ trong ý nghĩ, bằng cách kết hợp
với những cảm xúc xuất hiện trong nội tâm, như trong chú thích của Paul Klee đã
đề cập. Trong những con đường phát triển, các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật
và những nhà phê bình nghệ thuật đã bắt đầu giải thích về nghệ thuật nguyên
thủy, nghệ thuật Byzantine và nghệ thuật Roman, nghệ thuật phương Đông không
giống như sự mất cá tính vì thiếu đi tính cân xứng và thiếu sót về mặt kỹ
thuật, nhưng được quan tâm nhiều bởi tính biểu tượng hơn là tính tự nhiên.
Đó là chưa kể đến những cách đề cập thông thường khác về các biểu
tượng, ở đó một số còn tối nghĩa hoặc ít ra cũng là những sự sử dụng phức tạp
trong lĩnh vực hội họa. Nói cách khác, đó chính là những sự kết hợp mang tính
biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật theo những đề nghị đưa ra bởi những kinh
nghiệm tuy không mô tả mà là ngụ ý bằng các hình mẫu được thể hiện. Sự biểu
tượng hóa thường bị bác bỏ khi không phù hợp với việc làm sáng tỏ đối tượng
nghệ thuật. Nói cách khác, đó là khái niệm về biểu tượng hóa giống như quá
trình được đề cập, không phải với các đối tượng của thế giới bên ngoài như sự
lĩnh hội thông thường, mà là với một vài thực tế khác – cho dù trong suy nghĩ
của các nghệ sĩ, trong đó họ là người quan sát, hay trong tính bẩm sinh của sự
tồn tại nói chung. Việc chia tách các phạm trù là những cố gắng của một số nghệ
sĩ hiện đại để tránh tất cả những gì được biểu tượng hoá, để thể hiện nỗ lực
sáng tạo của họ như một sự đối đầu trực tiếp với kinh nghiệm, trong sự cố gắng
để kích thích sự phản ứng năng động và thay đổi tình hình. ‘Trong tương quan
với sự thuần khiết của người nghệ sĩ, anh ta phản đối biểu tượng luận,’được
viết bởi Roger Fry. Ngay cả với hội họa trừu tượng, trong khi từ chối biểu
tượng luận truyền thống của nghệ thuật trình diễn thông lệ, chứa đựng một giá
trị biểu tượng trong chất lượng thể hiện ở cảm hứng của khán giả. Mặc dù nó có
thể bị cho là nghệ thuật phi khách quan đã bị phá vỡ thông qua quá trình biểu
tượng hóa bản thân nó bằng sự đối mặt với khán giả với một sự ‘trải nghiệm trực
tiếp’ về những sức mạnh có liên quan tới sự sự sáng tạo bức tranh, điều đó đòi
hỏi phải có một sự xác nhận chắc chắn để duy trì sự vẹn toàn. Ngôn ngữ trong
việc xác định sức sáng tạo tự nhiên mà ở đó những đại diện tiêu biểu của nghệ
thuật trừu tượng đã phủ lấp những tranh luận của họ; ảnh hưởng của các hệ thống
ý tưởng thần bí đối với một số họa sĩ trừu tượng (ví dụthuyết thần trí (theosophy)
đối với Kandinsky và Mondrian); sự cố gắng đề đưa ý nghĩa cá nhân vào cấu trúc
chính - điều này có xu hướng liên quan tới những các hình mẫu biểu tượng trong
việc thể hiện một số bối cảnh.Michel Seuphor cho rằng với phụ nữ Mondria được
biểu tượng hóa như chân trời rộng lớn của biển cả; đàn ông được biểu tượng hóa
thành những chiếc cọc gỗ chống lại sóng dữ và những đụn cát từ biển cả. Ông ta
cho rằng nền tảng nhị nguyên đã trở thành cơ sở của Nghệ thuật tạo hình mới, và
một hệ thống tư duy thẩm mỹ đã được thiết lập một cách trọn vẹn dựa trên nguyên
lý của góc góc nhìn đúng đắn, đã phác họa sự dữ dội của tự nhiên bằng cách đưa
ra hình ảnh đối nghịch giữa biển-và-chân trời với những đụn cát (1962, 37).[3]
Thậm chí nơi nó được giữ lại hình dáng của nghệ thuật phi khách
quan chính là ‘tính biểu tượng chỉ của chính nó’ và thuật ngữ ‘siêu biểu tượng’
đã được đưa ra để thảo luận về thành tựu của chúng trong phép phân tích, nó
được cho là những gì có liên quan chính là một cuộc cách mạng tinh thần, và
‘lịch sử của sự phá hủy thế giới vật chất bên ngoài của diện mạo đã biểu thị
một sự tinh thần hoá từng bước của nghệ thuật, cho sự dẫn dắt của nó tới hơn
mọi sự thể hiện mang tính biểu tượng’(Fingesten, 1970, 113). Trong một tuyên bố
đầu tiên về vấn đề này Herbert Read đã phân biệt biểu tượng luận theo hướng
thông thường, dùng hình ảnh cụ thể, và biểu tượng luận dùng những cái trừu
tượng mà không có gì sánh bằng trong kinh nghiệm quan sát và thực hiện thông
qua quá trình vô thức hoặc trực giác. Một trong những trào lưu rõ rệt nhất của
thể loại cuối, siêu hiện thực, đã nỗ lực để tận dụng quá trình biện chứng vào
hoạt động nghệ thuật đối lập giữa ý thức và vô thức; hợp lý và bất hợp lý, hành
động và mơ tưởng. Vì vậy siêu hiện thực đã thận trọng đảm nhiệm việc sáng tạo
‘đối tượng có chức năng biểu tượng’ như một phần cố gắng tăng cường những cách
đạt tới các mức độ sâu nhất tính cách tinh thần (Andre Breton, 1936, 86).
Ở đây có hai điểm quan trọng trong toàn bộ vấn đề này. Một phần
lớn nhất trong sáng tạo biểu tượng luận của những hình thức nghệ thuật này được
thể hiện ở những hình dáng mang tính ngầm ẩn, không rõ ràng; quá trình khám
phá, nhận diện và đặt tên cho những mô hình biểu tượng được thực hiện bởi những
người quan sát và diễn giải, không được thừa nhận và thường không được biết đến
bởi các nghệ sĩ đã thực hiện. Thứ hai, khi những mô hình biểu tượng được nhận
ra trong các tác phẩm của họ, nó là một phần của tiêu chuẩn hiện đại để yêu cầu
cho nó có một sự tự trị rõ ràng hơn, một giá trị lớn hơn trong môi trường thẩm
mỹ. Sự công bố mang tính biểu tượng có chiều hướng được nhìn nhận thích hợp hơn
với sự công bố thực tế bởi vì, nó được cho là, có thể truyền đạt khái quát hơn
và có những ý nghĩa sâu sắc hơn.
Những vấn đề về mối quan hệ của biểu tượng riêng với biểu tượng
chung đặc nổi lên trong nghệ thuật. Làm thế nào mà cách nhìn cá nhân của người
nghệ sĩ lại chuyển thành những biểu tượng được công chúng chấp nhận? Có phải
nghệ thuật nảy sinh từ những nền tảng của nghịch lý - sự công bằng khẳng định
nỗ lực sáng tạo của cá nhân, và trong khả năng tác phẩm của anh ta được nhận ra
và được chấp nhận bởi chính những cá nhân khác - một cộng đồng? Có phải người
nghệ sĩ tin rằng chỉ anh ta mới là người đánh giá sau cùng về giá trị của những
nỗ lực mà anh ta giấu kín niềm tin tương tự rằng chỉ khi kết quả sự nỗ lực của
anh được chấp nhận bởi những cá nhân khác thì bản thân anh ta có chấp nhận giá
trị đó?
Một loạt các quan điểm sẽ được mở ra từ đây. Nếu người nghệ sĩ
nhìn tác phẩm như một phương tiện giao tiếp cơ bản hiển nhiên anh ta phải cố
gắng để mã hóa bằng chính những gì anh ta phải ‘nói,’ đó là một bức vẽ hoặc tác
phẩm điêu khắc, có thể được diễn giải bởi những người mà anh ta muốn giao tiếp.
Anh ta có thể cố gắng giải mã trong phạm vi của những biểu tượng đã được công
nhận một cách công khai - đó là những gì mà tôi cho là ‘nghệ thuật bình dân’
đang cố gắng thực hiện. Hoặc anh ta có thể cố ép sự thừa nhận về một sự mã hóa
mới, có lẽ của một yêu cầu được cho là thuộc về một số hiểu biết phổ biến của
con người - đó chính là những gì tôi kết luận về nhiều thể loại của nghệ thuật
trừu tượng đang cố thực hiện.
Nhưng những gì mà một số nghệ sĩ hiện đại đang cố thử nghiệm, nếu
tôi phân tích về họ một cách đúng đắn, để rút ra càng nhiều càng tốt yếu tố
nhân cách từ sự diễn giải về những sáng tạo của họ. Tính cá nhân, thành phần
không thể loại bỏ ở đây, trong hoạt động hợp nhất sự lựa chọn sáng tạo. Nhưng tính
cá nhân trong sự sáng tạo của nghệ sĩ chỉ muốn được xác nhận; không phải tính
cá nhân trong một con người cụ thể với giới tính, tính khí, và nền tảng xã hội.
Những đặc điểm của cá nhân người họa sĩ hoặc nhà điêu khắc mang tính cá nhân có
thể được đề cập bởi chính người nghệ sĩ không thích hợp với việc xác định tác
phẩm, làm rối trí với sự thừa nhận giá trị kinh nghiệm mà nó mang lại. Vì vậy
một họa sĩ tự nép mình như Bridget Riley có thể xử lý tác phẩm của cô như một
sự cố gắng để kích thích bằng các phương tiện quan sát, thông qua sự kết hợp
đường nét với khối tròn, chấm nhỏ, đường sọc vằn, trong gam màu đen hoặc trắng,
bằng một loại trải nghiệm cá nhân trong mắt người xem. Người nghệ sĩ thể hiện ý
tưởng đằng sau sự sáng tạo - không nhất thiết phải như người biểu diễn, khi
công việc đó có thể được thực hiện bởi những người phụ tá theo sau sự hướng dẫn
tỉ mỉ đã đặt ra (Robertson, 1971). Tương tự như vậy, sự tính toán xuất phát từ
những công trình điêu khắc hoặc những bản vẽ đã được tạo ra bởi nghệ sĩ người Mỹ
Sol Lewit. Đây là một sự cố gắng để giảm thiểu đến mức thấp nhất sự công
khailiên lụy của nghệ sĩ trong nỗ lực diễn giải đối với người xem.
Dường như sự thành công trong kiến thức và sự tỉ mỉ trong tính cách của nghệ
sĩ, những loại hình tượng xã hội hoặc tính khí nào mà anh ta hoặc cô ta mô tả,
xuất hiện không phù hợp với sự diễn giải về bức vẽ là một phần kinh nghiệm của
người xem. Ở đây nổi lên những gì tôi muốn gọi là ‘biểu tượng câm.’ Người nghệ
sĩ nói về hiệu quả: hiểu bức vẽ theo quan điểm riêng của cá nhân bạn, trong
phạm vi kinh nghiệm của bản thân bạn; để cho những kết hợp của đường nét, hình
khối và màu sắc truyền tải thông điệp của bản thân chúng tới bạn - hoặc một
cách nghiêm khắc hơn, để chúng gợi ý cho bạn về sự nhiệt tình của những cảm giác
mà nó sẽ giúp bạn một trải nghiệm nhận thức được, về một ‘sự kiện,’ Ý nghĩa
biểu tượng theo nghĩa bóng nhiều hơn đã không được mong đợi - thậm chí có thể
bị từ chối. Ở đó có một niềm tin rằng trong một mối quan hệ trực tiếp giữa đối
tượng vật chất và sự đánh giá của người xem để cho những hình mẫu của bức vẽ
không ‘thay thế’ cho một cái gì khác hơn chính bản thân chúng. Chúng được mong
đợi để gợi lên sự phản ứng mà không cần sự dàn xếp của những hình ảnh khác.
Theo cách diễn đạt chuẩn của ‘cấu trúc luận,’ những hình mẫu nghệ thuật được
‘dàn xếp’ trực tiếp, theo một cách căn bản nhất, giữa những hiện
tượng-xung lực (raw impulse-phenomena dạng thô) trong bản chất con
người với vị thế-xác định văn hóa (culturally-defined
position) của người xem. Ở đây cũng có sự cố gắng nhiều hơn để giảm bớt tầm
quan trọng của chất liệu nghệ thuật, trong sự thiên vị đối với hình ảnh tinh
thần – mà qua đó ‘nghệ thuật khái niệm,’ ‘nghệ thuật mini,’ ‘siêu-thực’ và một
vài loại khác có sự quan tâm nhằm xoá mờ càng nhiều càng tốt những nhân tố nhân
văn trong nghệ thuật.
Nhưng như tôi nhận thấy, người nghệ sĩ trên thực tế không lu mờ
như sự mô tả. Nó được công nhận rằng chúng ta phải đương đầu với quan niệm thẩm
mỹ của người nghệ sĩ. Và thậm chí trong những lĩnh vực tiến bộ nhất của nghệ
thuật hiện đại, ở đó vẫn có sự tìm tòi ở một phần nào đó của các nhà phê bình
nghệ thuật và công chúng như với những gì người nghệ sĩ ‘dự kiến’ thể hiện qua
phẩm. Bản thân người nghệ sĩ thường bày tỏ tính trầm lặng ít đặc thù trong việc
giải thích những gì anh ta thành thạo, đôi khi trong những phạm vi lý thuyết
ngây thơ. Josef Albers, một nghệ sĩ Bauhaus kì cựu, người đã làm việc nhiều năm
với những hình chữ nhật đơn sắc - ví dụ trong tác phẩm ‘Homage to the square’ -
đã cho rằng lý lẽ của mỹ học chính là đạo đức học (một sự đảo ngược nhiều hơn
một vị trí trung tâm); những màu sắc trong tác phẩm của ông minh họa cho cả sự
độc lập và sự tương tác; chúng thể hiện ra sự giúp đỡ, ghét bỏ, vui sướng với
một cái khác theo đạo lý cũng như những nhu cầu thẩm mỹ. Các nhà phê bình có
thể quá phản ứng với những phạm vi biểu tượng - như ai đó đánh giá đúng sự rõ
ràng về mặt quan niệm của một số hình ảnh trên cơ sở-toán học đã cho rằng chúng
dường như đã đạt đến có giá trị duy nhất với anh ta, đã chiếm hữu một
cách ‘nhẹ nhàng nhưng quyết định sức mạnh tinh thần’ (Grace Glueck. New York
Times, 3/12/1971; Peter Schjeldahl, New York Times, 10/3/1971). Với những giải
thích như vậy, dù là của các nghệ sĩ hay nhà phê bình, có thể tạo nên những
thay đổi lớn. Một số có sự thoả thuận về sự ‘quá tay’ (overkill) của một loại
lý thuyết hoặc suy đoán, mà ở đó người ta cảm thấy rằng ngôn ngữ phóng đại liên
quan có tác động nhiều đến người nghe hoặc người đọc hơn là với sự diễn giải
nghiêm túc về tác phẩm nghệ thuật. Nhưng họ giúp củng cố nhận định mà Gombrich
đã lịch sự biện hộ cho Nghệ thuật và Sự minh họa - rằng tác
phẩm nghệ thuật là một sản phẩm phức tạp trong một hệ thống những mối quan hệ
mà ở đó nghệ sĩ và khán giả có mối liên hệ trọn vẹn.
Khái niệm biểu tượng bản thân nó giống như một sản phẩm của một sự
liên hệ trọn vẹn về mối quan hệ giữa người chế tạo và người diễn giải có sự ăn
ý nhau cho một yêu cầu về mặt nhân học. Cùng lúc có một vấn đề về mặt thẩm mỹ
nằm ngoài phạm vi nhân học - về bản chất của những hình mẫu nghệ thuật - chúng
đưa ra những biểu tượng quyền lực. Điểm tập trung ở đây không nằm ở ý nghĩa của
biểu tượng, với người nghệ sĩ, với công chúng, mà nằm ở những hình mẫu có thể
được dựng lên để truyền đạt ý nghĩa một cách sinh động nhất, hay biểu cảm nhất.
(Có lẽ, ‘nghệ thuật bình dân’ được che chở trên những nền tảng mà ở đó thông
điệp của chính bản thân nó thường không đáng kể, những hình mẫu mà ở đó sự biểu
thị của nó lại đầy mạnh mẽ trong sự ám chỉ)./.
Người dịch:
Đinh Hồng Hải
[1] M.D.Anderson (1938, 41-2), Emile Male
(1947, 332), Novonty (1930, pl.65), Gantner và Pobe (1956, pl.80). Nhưng Male
chỉ ra rằng những con sư tử trong cuộc chạm trán, ở các cổng chính và trên các
đầu cột, với mục đích lớn nhất không phải là để mang tính tượng trưng mà để
trang trí. Lời kêu gọi của chuyên gia St Bernard, nói rằng chúng không tạo ra
cảm giác. Male cho rằng cặp sư tử đơn giản mô phỏng lại những thiết kế về những
kết cấu xây dựng kiểu phương đông. Giống như hình ảnh những con quái vật trên
đầu cột được thiết kế không phải để chỉ dẫn mà để làm thích mắt (Male, 340- 1,
437). Tương tự như vậy Male không thừa nhận cách giải thích về hình ảnh
người đàn ông ngồi giữa hai con sư tử, và giữ cổ của chúng, giống như là một sự
miêu tả tượng trưng về Daniel trong hang sư tử. (Ví dụ Peter Mayer, 1945,
pl.5, cho nhà thờ lớn của Chur; Joseph Gantner và Marcel Pobe, 1956, 55, pl.58,
cho Charlieu- Loire). Male nghi ngờ về sự quy ra cho hình ảnh ‘Daniel’ trừ phi
ở đó hình ảnh người đàn ông đang bận cầu nguyện. Ông cũng chỉ ra rằng Daniel
không phải là người dạy sư tử, và rằng những nghệ sĩ theo phong cách Roman đã
đưa ra sự thật Daniel đang cầu nguyện giữa những con sư tử không dám tiến
đến chỗ anh ta. Vì vậy theo Male, sự giả tạo hình ảnh Daniel trên đầu cột ở hành
lang nhà thờ Moissac thực sự là một anh hùng tưởng tượng người Ax-xitri
Gigamesh (1947, 352). Sự nhận diện hình ảnh người đàn ông giữa con sư tử và
quái vật đầu người mình ngựa ở Serrabone giống như Gigamesh, bởi Marcel Durliat
theo nguồn của luận văn chưa được công bố của Mme Favre cũng có thể cuối cùng
tại Malr (Durliat, 1952, 68-9). Điểm chính tôi muốn nhấn manh ở đây trong tất
cả những điều này là dấu hiệu chưa chắc chắn của rất nhiều sự quy kết biểu
tượng của các thế hệ sau này.
[2] Ví dụ trên đầu cột ở nhà thờ lớn Autun
(dẫn theo Grivot và Zarnecki, 1961, 63, pl.29; Kunstle, I, 297), trên cánh cửa
bằng đồng thiếc ở nhà thờ lớn Augsburg (Leisinger, 1957, pl.42); trên chỗ tụng
niệm ở giáo đường Schongraben (Novotny, 1930, pl.5); trên tai giữa ở nhà thờ
lớn Gurk (Novotny, 1930, 79-81, 83, pl.62); trên tai giữa trong nhà thờ
Stretton Sugwas, nhà thờ Herefordshire và Highworth, Wilshire (A.W.Clapham,
1934, 138, 142, pl.34; C.E.Keyser, 1927, 84,85- người miêu tả hình dáng
Highworht giống như David (lii).
Để Samson như là một điển hình của chúa Giê-su, theo
F.E.Hulme (1899, 126), người đã trích dẫn con sư tử (ibid, 4) như một ví dụ về
việc làm thế nào một biểu tượng có hai ý nghĩa khác nhau hoàn toàn, những thứ
đối nghịch nhau.
[3] Dẫn theo Kandinsky trong Linh hồn
trong Nghệ thuật (Spiritual in Art). ‘Ở đây không có hình mẫu, không có
thứ gì trong thế giới, không nói tới điều gì.’ Cũng có thể xem Jakob Rosenberg
(1967, 225) nói về loạt tác phẩm in li-tô Klein Welten của
Kandinsky ‘ám chỉ tới hình dáng tự nhiên bị bỏ qua và những mẫu hình học được
trang trí bởi màu hoặc đen và trắng’ - người ta có thể nói về một hình ảnh biểu
tượng gợi lên một vũ trụ thu nhỏ (Kleine Welt) được lấp đầy năng lượng
chưa bị kiểm soát bởi các quy luật hấp dẫn và lực đẩy. So sánh với quan niệm
của Kooning trong tác phẩm ‘Ánh sáng tháng Tám’ (Light in August),
một nghiên cứu về hai màu trắng và đen, giống như một ‘sự trừu tượng của nhà
biểu tượng.’ Tách ra từ một nguồn trong tự nhiên những hình dáng hữu cơ có ý
nghĩa về mặt cảm xúc tương tự như những tín hiệu toán học…Ở đó có sự ẩn dụ hữu
hình mà trong đó các mô-típ toát ra từ những đối tượng cụ thể tạo ra tiếng vang
rộng hơn về sự liên tưởng ( Harold Rosenberg, 1965, 115-16).
vanchuongviet.org
vanchuongviet.org
Meredith Mendelsoln – Những nghệ sĩ lãng mạn mới
Trong “Đại dương mênh
mông” (2001) của Ena Swansea, một bé trai đang đứng bên một bờ biển giận dữ.
Bức tranh gợi nhớ lại tác phẩm của những họa sĩ Lãng mạn thế kỷ 19 như Caspar
David Friedrich và J.M.W. Turner. Nhưng với ánh sáng chói, màu điện tử và vẻ dữ
dằn của biển, tác phẩm của Swansea mang một vẻ lãng mạn đương đại – cùng sự
giận dữ của những phong cách 2 thế kỷ trước.
“Đại dương mênh mông” của Ena Swansea
Là một trong những chủ
nghĩa khó nắm bắt của lịch sử nghệ thuật, phong cách Lãng mạn hiện thân của nó
có nhiều hình thức. Như một trào lưu, nó nổi lên vào cuối thế kỷ 18 như một
phản ứng với chủ nghĩa duy lý hình thành ở thời đại Ánh sáng. Bị vỡ mộng bởi Cách
mạng Pháp và những hậu quả hỗn loạn của nó, cũng như cách mạng công nghệ và
những căn bệnh tinh thần của nó, những nghệ sĩ Lãng mạn nhấn mạnh đến tính xúc
cảm và chủ quan trên tính duy lý và khoa học. Chủ đề của họ thường là những đề
tài huyền thoại, lịch sử, linh hồn, hay những ý nghĩa, tính nguyên thủy trong
thiên nhiên, để chuyển tải những trạng thái tâm lý và những trải nghiệm vượt
qua những cái tầm thường.
Hơn 200 năm sau, nhiều
nghệ sĩ đã quay về với những chủ đề và phong cách của trường phái Lãng mạn.
Anoelm Kiefer với niềm đam mê lịch sử và huyền thoại Đức, Bill Viola với những
chân dung video đầy cảm xúc. Nhưng ngày nay, có những nghệ sĩ quan tâm tới
những điều cơ bản đặc thù của trào lưu này, trong phong cách lẫn chủ đề, từ
những nhát cọ điên cuồng và màu sắc rực rỡ đến những chiếc tàu chìm và hình ảnh
cô độc của con người trong khung cảnh thiên nhiên.
Người phụ trách Martina Weinhart của nhà Schirn Kunsthalle ở Frankfurt nói: “Cả một thế hệ nghệ sĩ trẻ có vẻ như đang làm sống lại linh hồn Lãng mạn”. Ông tổ chức “Những thế giới lý tưởng: trường phái Lãng mạn mới trong nghệ thuật đương đại” tại Schim mùa hè vừa rồi với Max Hollein. Triển lãm bao gồm những tác phẩm của 13 nghệ sĩ, từ những bức ảnh mang không khí sầu muộn của những người đàn bà trẻ trên bãi biển mờ sương của Justine Kurland cho đến những tượng rùng rợn với đồ trang sức đầu sói của David Altmejd. Weinhart nói những nghệ sĩ này đi theo những “thiên đường, cái đẹp, và chuyện thần tiên”. Kể cả những khu rừng trăng sáng trong sách truyện của Laura Owen, những bức màu nước của Hernan Bas về những người đàn ông trầm ngâm trong những phong cảnh mơ màng và những bức tranh cắt dán giấy về những tòa nhà uy nghi trong những phong cảnh tuyệt vời của David Thorpe.
Người phụ trách Martina Weinhart của nhà Schirn Kunsthalle ở Frankfurt nói: “Cả một thế hệ nghệ sĩ trẻ có vẻ như đang làm sống lại linh hồn Lãng mạn”. Ông tổ chức “Những thế giới lý tưởng: trường phái Lãng mạn mới trong nghệ thuật đương đại” tại Schim mùa hè vừa rồi với Max Hollein. Triển lãm bao gồm những tác phẩm của 13 nghệ sĩ, từ những bức ảnh mang không khí sầu muộn của những người đàn bà trẻ trên bãi biển mờ sương của Justine Kurland cho đến những tượng rùng rợn với đồ trang sức đầu sói của David Altmejd. Weinhart nói những nghệ sĩ này đi theo những “thiên đường, cái đẹp, và chuyện thần tiên”. Kể cả những khu rừng trăng sáng trong sách truyện của Laura Owen, những bức màu nước của Hernan Bas về những người đàn ông trầm ngâm trong những phong cảnh mơ màng và những bức tranh cắt dán giấy về những tòa nhà uy nghi trong những phong cảnh tuyệt vời của David Thorpe.
Đối với những nghệ sĩ Lãng mạn thời quá khứ cũng như hiện tại, sự hiện
diện của thiên nhiên là không thể biết và không thể kiểm soát, phong cảnh là
một nơi tồn tại những nhận thức của huyền thoại. Vì lý do nào đó, những huyền
thoạ này nhường chỗ cho sự suy đoán không tưởng; mặt khác, chúng là nguyên nhân
của sự khủng hoảng cuộc sống. Trong khi những họa sĩ Lãng mạn thế kỷ 19
thấy phong cảnh là nơi biểu lộ cái chất hùng vĩ đầy tín ngưỡng, thì những nghệ
sĩ ngày nay lại ít thiên về tâm linh hơn. Họ tìm cách mô tả sự cô lập của con
người – trong một thế giới xa lạ đầy tính xã hội và kỹ thuật.
Peter Doig, cũng trong
nhóm “Những thế giới lý tưởng”, thường đưa hình ảnh đơn độc trong phong cảnh
của ông với những hình thức thưa thớt, mềm mại, các mảng màu trong những hình
bóng vẽ bằng pastel. Ông là một trong vài họa sĩ nằm trong bộ sưu tập của Charle
Saatchi về những nghệ sĩ Anh trẻ đầu những năm 1990. Trong khi những đồng
nghiệp của mình tập trung vào nghệ thuật ý niệm, Doig đã tạo ra những tác phẩm
lấy cảm hứng từ Friedric. “Tôi đã vẽ theo sở trường của ông ta về phạm vi và sự
dằn vặt đối với hiện thực. Những bức tranh mang phong cách hiện thực, nhưng là
một thế giới được sáng tạo”. Tác phẩm của Doig sẽ được triển lãm ở gallery
Michael Werner và Gavin Brown’s Enterprise ở New York cuối năm nay (với giá từ
40.000 $ đến 250.000 $). Ông tạo hình ảnh bằng cách kết hợp những thành phần từ
nhiều bức ảnh, tranh của ông đầy vẻ hồi tưởng và mơ mộng, nhưng cái hình dáng
trung tâm thường có vẻ không hợp với phong cảnh chung quanh, mang lại một cảm
giác không thoải mái. Doig nói, một trong những mục đích của ông là “với tới
cái không thật”.
Martin Oppel vẽ thành
phố đang lan tràn và những khung cảnh sa mạc để nối những phong cảnh trường
phái Lãng mạn với những vấn đề của thế giới hiện đại, thể hiện một cảm giác
thất vọng. Trong “Những ngọn đồi Miami” (2004) tại Galerie Emmanuel Perratin ở
Miami năm ngoái, một bầu trời màu hồng và xanh cuộn xoáy phía trên những đống
gạch đổ nát lờ mờ, với những ống khói ở phía xa. Vẻ uy nghiêm của thiên nhiên
đang cạnh tranh với những sáng tạo của con người.
Ernesto Caivano đã mang
những kiểu Lãng mạn truyền thống về thiên nhiên và huyền thoại kết hợp với
những tàu vũ trụ và những sinh vật tương lai trong câu chuyện khoa học giả
tưởng về những tình nhân bị đày đọa. Loạt tranh 300 bức vẽ bằng mực “Sau những
cánh rừng” (2001 - 05) kể câu chuyện về một công chúa và chàng hiệp sĩ bị lạc
mất nhau một nơi mà Caivano gọi là “vũ trụ mới”. Công chúa dùng những con chim
để liên lạc với hiệp sĩ, nhưng chàng hiệp sĩ lại giết những con chim để lấy
lông mà không phát hiện ra những thông tin chúng mang theo. Cuối câu chuyện,
nàng công chúa biến thành tàu vũ trụ và chàng hiệp sĩ biến thành bộ đồ du hành.
Đó là một thiên sử thi về sự thất bại trong sự giao tiếp.
Những nghệ sĩ khác sử
dụng trực tiếp những hình ảnh bi kịch từ thế kỷ 19. Dan Ford vẽ những bức họa
về biển với hiểm họa báo trước đầy cảm xúc, đặt thêm vào những đồ chứa dầu bị
chìm hay những tàu chở dầu ngập chìm trong khói đen. Ford nói ông ta đang cố
gắng kéo sự chú ý phi thương mại giữa vấn đề phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường.
Ryan Taber trộn lẫn những yếu tố từ những bức tranh khoa học của những họa sĩ
Lãng mạn Mỹ – như những họa sĩ trường Hudson River, Thomas Cole, Albert
Bierstadt và Frederic Edwin Church – với những nội dung lịch sử nghệ thuật
khác. Trong một công trình điêu khắc, phiên bản phóng lớn của tảng đá non bộ
Nhật Bản có mô hình của một con tàu Norse và cảnh một tranh nhà thờ. Taber rất
thích khám phá những vật có vẻ bên ngoài khác so với nội dung gốc của nó, nhưng
ông cũng cố gắng chỉ ra sự liên lạc giữa những trào lưu lịch sử.
Đối với Whitney Bedford,
đó là “những hình ảnh khải huyền” của những nghệ sĩ Lãng mạn ngày nay. Mang một
trong những phong cách chính yếu của thế kỷ 19, cô vẽ những con tàu đang đáp
vào trong những vũng sơn của lối vẽ đắp “Chất sơn tự nó đang cố nhấn chìm con
tàu”. Với những màu sền sệt , những bức tranh này vừa lạc quan vừa đầy vẻ chết
chóc, vừa rạng rỡ vừa u sầu. Đó là tính hai mặt mà những nghệ sĩ Lãng mạn mới
luôn mang trong lòng như những bậc tiền bối của mình.
Tranh của Whitney Bedford
Phạm Văn Đức dịch
Hilarie M.Sheets – Nơi những cây nấm thần kỳ nở hoa
“Luôn luôn có sự hấp dẫn
để làm mọi thứ đều có nghĩa. Nhưng vùng đất phiêu diêu trong sự hiểu biết của
bạn là nơi tất cả sự hỗn loạn và mọi thứ đều nở hoa cùng lúc”. Tình cảm này của
Lisa Beck, 47 tuổi, họa sĩ Brooklyn, vang vọng trong những tác phẩm của cô về
những vòng tròn được sắp xếp ngẫu nhiên “trở thành có trật tự”, khi cô lập lại
cái cách của Rorschach và khi cô phản chiếu chúng lộn ngược từ phía sau trong
những trái banh acrylic. Xin chào mừng tới vùng đất phiêu diêu của thế kỷ 21:
hình ảnh thị giác, không cần đến những loại ma túy mạnh.
“Căn phòng nấm lộn ngược”
của Carsten Holler
Một trong những tác phẩm
của Beck “Glimmerer” (2004) được trưng bày trong triển lãm “Những đồ pha lê kỳ
lạ của sự tinh khiết bất thường” tại Trung tâm Mỹ thuật đương đại P.S.1, New
York. “Cảm nghĩ về buổi triển lãm là những thứ lạ lẫm, đẹp đẽ gây phấn khích
cho đôi mắt và tinh thần bạn, và thời gian đang dần chậm lại một chút”. Đó là ý
kiến của Nickas, người đã xếp những tác phẩm thôi miên thị giác của những nghệ
sĩ như Alex Brown, Jim Drain, Ara Peterson, và Fred Tomaselli bên cạnh tác phẩm
của những bậc tiền bối như Bruce Conner và Harry Smith những năm 1960.
Trong một nền văn minh đang đối mặt với sự tràn ngập của hình ảnh và thông tin, tính chất trang trí lộng lẫy vẫn nổi trội hơn tất cả. Như “Những vòng pháo hoa 1-35” (2005) của Drain và Peterson, một không gian như kính vạn hoa của những vòng pháo hoa xoay tròn khổng lồ trong triển lãm “Hypnogoogia” của họ ở Deitch Projects, New York mùa thu vừa rồi. Nhưng những nghệ sĩ vẫn tiếp tục phát huy khả năng trong loại nghệ thuật dẫn đầu này, từ căn phòng đầy những cây nấm quá cỡ của Carsten Holler cho đến sắp đặt ánh sáng của Erwin Redl Nikas. Tác phẩm “Bàn tay giới hạn sa mạc” (2002) của Trisha Donelly, một tấm ảnh đen trắng chụp chân sau của con Sphinx. “Cô tưởng tượng rằng nếu chân của Sphinx nhấc lên thì tất cả các hạt cát đều bay vào trong không gian. Đó không phải do những màu sắc sáng và cuộn xoáy, mà nó thể hiện nhiều hơn về nhận thức và mơ mộng”
Trong một nền văn minh đang đối mặt với sự tràn ngập của hình ảnh và thông tin, tính chất trang trí lộng lẫy vẫn nổi trội hơn tất cả. Như “Những vòng pháo hoa 1-35” (2005) của Drain và Peterson, một không gian như kính vạn hoa của những vòng pháo hoa xoay tròn khổng lồ trong triển lãm “Hypnogoogia” của họ ở Deitch Projects, New York mùa thu vừa rồi. Nhưng những nghệ sĩ vẫn tiếp tục phát huy khả năng trong loại nghệ thuật dẫn đầu này, từ căn phòng đầy những cây nấm quá cỡ của Carsten Holler cho đến sắp đặt ánh sáng của Erwin Redl Nikas. Tác phẩm “Bàn tay giới hạn sa mạc” (2002) của Trisha Donelly, một tấm ảnh đen trắng chụp chân sau của con Sphinx. “Cô tưởng tượng rằng nếu chân của Sphinx nhấc lên thì tất cả các hạt cát đều bay vào trong không gian. Đó không phải do những màu sắc sáng và cuộn xoáy, mà nó thể hiện nhiều hơn về nhận thức và mơ mộng”
"Bàn tay giới hạn sa mạc” của Trisha Donelly
Những dự án Deitch đã
khai thác trào lưu Tân phiêu diêu này trong catalogue gần đây “Hãy sống qua cái
này: New York vào năm 2005”, để tôn vinh 25 nghệ sĩ, bao gồm Jules de
Balincour, và những nhà sưu tập như Dearraindrop và Paper Rad, những người đến
với nghệ thuật như là một trải nghiệm sống và tự do. Tác phẩm những vòng pháo
hoa của Drain và Peterson có giá 150.000 $ cũng có mặt trong catalogue. Hai
nghệ sĩ này trước đây là thành viên của nhóm 4 người trong bộ sưu tập
Forcefield ở Providence. Tại giải thưởng 2 năm Whitney 2002, nhóm đã gây nhiều
sự chú ý với cái hang không gian nhốt những sinh vật có trang phục ngoài trái
đất vừa nhấp nháy vừa kêu bíp bíp. Mặc dù bộ sưu tập có tiếng vang từ giải
thưởng 2 năm, song tác phẩm của họ vẫn tác động tới những nghệ sĩ trẻ tuổi.
Nhưng những nhà cách tân này không hẳn là sao chép phong cách những năm 1960;
đúng hơn là họ đang cập nhật nó trong sự trả lời với thế giới quanh họ. Beck
noi: “Tôi nghĩ nền văn hóa của chúng ta ngày nay đang đặt giác quan của con
người vào vùng nước xoáy, và nó đang xoay sở giữa việc tránh ra hay là bơi vào
trong đó”.
Người phụ trách Paul
Schimmel cũng cảm thấy những nghệ sĩ đương đại đang sử dụng phong cách những
năm 1960 như là một “ván nhún” hơn là những ký ức. Thực chất, ông định ra những
khu vực tái hiện của tính phiêu diêu như một sự thúc đẩy phía sau cuộc triển
lãm “Trạng thái xuất thần bên trong và về những tình trạng bị thay đổi” tại Bảo
tàng Mỹ thuật đương đại ở Los Angeles. Với buổi triển lãm, Schimmel đã chọn 29
nghệ sĩ và những bộ sưu tập với những tác phẩm có ý tưởng của sự nhận thức mới.
Trong khi Franz Ackermann và bộ sưu tập thể hiện không gian sinh động tập trung
vào cách sử dụng màu và sắp xếp, những nghệ sĩ khác lại nghiên cứu về sự choáng
ngợp của cảm giác và những thí nghiệm về ánh sáng. Olafur Eliasson tạo ra một
vòi phun mưa lộng lẫy trong căn phòng tối được chiếu sáng gián đoạn; Ann
Veronica Janssens thôi miên người xem với những vòng đèn lớn màu xanh chớp tắt;
và Redl tạo ra chòm sao gồm những bóng đèn xanh lượn trong bóng tối quanh những
đường kẻ ô 3 chiều vô tận. Cũng như những cây nấm trong buổi triển lãm, thật
thần kỳ với những nhãn cầu liếc mắt đưa tình như trong những bức tranh và điêu
khắc hoạt hình ở Takashi Murakami, đang mọc lên từ sàn nhà trong tác phẩm “Cánh
đồng Psilocybe Cubensis” (1977) của Roxy Paine, hay những cây nấm khổng lồ đung
đưa từ trên trần nhà trong “Căn phòng nấm đảo ngược” (2000) của Holler.
Đạo diễn Christoph
Grunenberg đã triển lãm “Mùa hè của tình yêu: Nghệ thuật của thời đại phiêu
diêu”, đặt tại Liverpool và Schirn Kunsthalle Frankfurt. Ông đã gộp tất cả
những poster, sắp đặt, những trình diễn ánh sáng, phim, thời trang, những vật
thiết kế, và tranh của những nghệ sĩ như Robert Indiana, Yayoi Kusama, Verner
Panton, và Andy Warhol, cũng như của Isaac Abrams và Mati Klarwein. Trong
catalogue, ông giải thích về sở thích của mình đối với những chủ đề đang phục
hưng của phong cách này.
Sự trộn lẫn giữa nghệ thuật vama túy từ lâu đã thể hiện trong những tác phẩm của Tomaselli, trong đó có tác phẩm “Trạng thái xuất thần”. Những viên thuốc có màu như kẹo và những lá cây gai dầu là những thành phần thiết kế trong tác phẩm cắt dán độc đáo trên những tấm ván đen phủ nhiều lớp nhựa cây trong suốt. Cái ý tưởng tiền hiện đại của hội họa như một cánh cửa mở ra một thế giới khác đó là những trải nghiệm của tác giả với ma túy.
Sự trộn lẫn giữa nghệ thuật vama túy từ lâu đã thể hiện trong những tác phẩm của Tomaselli, trong đó có tác phẩm “Trạng thái xuất thần”. Những viên thuốc có màu như kẹo và những lá cây gai dầu là những thành phần thiết kế trong tác phẩm cắt dán độc đáo trên những tấm ván đen phủ nhiều lớp nhựa cây trong suốt. Cái ý tưởng tiền hiện đại của hội họa như một cánh cửa mở ra một thế giới khác đó là những trải nghiệm của tác giả với ma túy.
Carly Berwick – Hòa bình, tình yêu và sự hiểu lầm
Một khuôn mặt quen thuộc
lởn vởn phía trên một đống những lon nước súp Campbell, những huy hiệu đoàn thể
và tính cách mạng của những nắm tay giơ lên trong tác phẩm “Hoàng đế nước xốt
cà chua” (2004) của Justin Faunce. Đó là Michael Jackson, với cái mũ beret của
Che Guevara và mái tóc giống những hình của Alberto Korda, nhe răng cười như
con mèo Cheshire trong vùng đất thần tiên hiện đại. Những tác phẩm của Faunce
sàng lọc những thần tượng văn hóa Pop và đặt họ vào trong một kính vạn hoa cỡ
lớn. Chẳng có tính chất cấp tiến cũng như đạo đức trong một xã hội tiêu thụ,
điều đó được thể hiện trong những tác phẩm của Faunce.
“Hoàng đế nước sốt cà chua” của Justin Faunce
Những nghệ sĩ đang làm
việc với những phương tiện khác nhau, để định lại giá trị của sự theo đuổi một
thế giới hoàn hảo. Từ những trình diễn hài hước, châm biếm của Tamy Ben-Tor nói
lên những đặc tính của một con người tự do ở phương Tây sầu khổ và của một quý
bà đi dạo, cho đến những video của Sue de Beer tập hợp những sự lo âu tuổi
thiếu niên và bạo lực cách mạng. Nhiều tác phẩm của họ là sự phản ứng lại những
đổ vỡ của mộng tưởng sôi nổi. Phần lớn những nghệ sĩ này sinh ra trong những
năm 1970, theo gót chân những cuộc cách mạng sinh viên năm 1968, trong thời đại
của sự tái chế, nhận diện chính trị, chủ nghĩa chống vật chất.
Sau thế chiến thứ nhất,
những nghệ sĩ từ trường phái Cấu trúc Nga như Vladimir Tatlin cho tới những
nghệ sĩ Vị Lai, những sinh viên trường phái Bauhaus, tìm kiếm cách tạo ra những
hình ảnh hoàn toàn của một xã hội lý tưởng bằng những bản tuyên ngôn mạnh mẽ.
Trong những thập kỷ kế tiếp, nhiều nghệ sĩ thể hiện lý tưởng nghệ thuật thuần
khiết của họ trong việc gắn bó với một phong cách nhất định, như Trừu tượng hay
Tối thiểu. Nhưng các chấn thương những năm gần đây, từ chiến tranh Iraq cho tới
những cuộc tấn công nước Mỹ ngày 11 - 9, đã thúc đẩy “việc coi lại mối quan tâm
rõ ràng về chính trị của nghệ sĩ” (Biesenbach).
Để trả lời cho nhận thức
này, nhiều nghệ sĩ đang tìm cách tạo ra một sự cân bằng giữa dư luận xã hội và
sự tham gia đầy hy vọng. Nghệ sĩ Thụy Sỹ Thomas Hirschharn đã viết e-mail cho
tờ ART News rằng “Tôi tin nghệ thuật có thể thay đổi thế giới. Tôi không làm
việc cho hòa bình và tình yêu. Tôi muốn làm việc bây giờ và ở đây, trong cái
thô bạo và tình trạng không thể thấu hiểu được của thế giới”. Sắp đặt của ông
“Sự quan tâm bề mặt” tại gallery Gladstone, New York, gồm sân khấu bằng gỗ được
bao bọc bằng giấy cứng, lá kim loại, hình cắt ra từ tạp chí về cuộc chiến ở
Iraq. Sắp đặt “Người đàn ông tiền sử ” (2002), ông đã biến gallery thành cái
hang bằng giấy cứng, chứa đầy sách và những bộ phận TV hư và viết nguệch ngoạc
những khẩu hiệu như “Một người đàn ông = một người đàn ông”. Trong sắp đặt
“Không tưởng, không tưởng” (2005) tại Viện Wattis, trường Cao đẳng Nghệ thuật
California, ông thể hiện chủ đề về ý tưởng và thực tế của “sự trang trọng thật
sự” – kiểu phong cách được nâng lên từ những người tiên phong của nền văn hóa mới.
Trong tác phẩm của
Josephine Meckseper, nền văn hóa thương mại, quyến rũ, thịnh vượng chịu sự chi
phối bởi nền văn hóa mới suy tàn. Gần đây, cô lại trét bột lên những cửa sổ
phía trước của gallery Elizabeth Gee – New York với những huy hiệu của gallery
Duane Reade & Gagosian. Bên trong, những khối hộp bằng kiếng, một hộp hiển
thị cái búa, liềm bằng bạc phản chiếu sự trang trọng thực sự tới tột đỉnh. Cô
cũng mắc một khăn choàng đầu của người Palestin vòng quanh một mannequin mảnh
mai. Gần đó, video về cuộc chống chiến tranh gần đây, nhìn có vẻ như cuối những
năm 1960. Cũng như với những tác phẩm của Hinschhorn, sự bất mãn của cô đối với
xã hội đương thời xuất phát từ mong muốn làm cho nó tốt hơn.
Một ký ức ngậm ngùi cho
chủ nghĩa lạc quan của thế hệ hòa bình và tình yêu, có thể tìm thấy trong
“Những kẻ chống đối hòa bình” (2003) của Jules de Belincourt. Một vòng tròn
những người khỏa thân nắm tay nhau quanh lửa trại trong rừng; trong khi đó
“Những kế hoạch mới đầy tham vọng” (2005) mang khoảnh khắc chính trị hiện tại.
De Balincourt nói ông đang nghĩ về sự vô ích của cộng đồng đối với những nhà
chính trị ngày nay.
Triển lãm của Carol Bove tại Maccarone, New York, gồm những sắp đặt nghiên cứu
phi thường với những sách cẩm nang cuối những năm 1960 - 70. Bove thể hiện sự
pha trộn giữa sự mong đợi và sự coi thường đối với quá khứ gần đây “Tôi nghĩ đó
là giai đoạn đầy thích thú mà mọi người cố gắng làm lại thế giới”. Nhưng cô
cũng nói “Những vấn đề của chúng ta hiện nay có nguồn gốc từ cuối những năm
1960. Tôi không thấy nó tách rời với thời đại chúng ta ngày nay”.
Nỗ lực làm lại bản thân và
thế giới có thể mang những hình thức khác nhau. Video “Preah” (2005) của Corey
McCorkle được chiếu vào mùa thu năm ngoái trong một nhà chứa thịt cũ ở New
York. Video được quay ở Cambodia, có cảnh con bò liếm đầu của những người cầu
xin, vì họ tin vào tính chữa bệnh của nước miếng động vật. McCorkle cũng quay
tư liệu một thành phố ở nam Ấn Độ được sắp xếp trật tự xoắn theo nguyên lý “sự
hỗn loạn thần thánh”, và ngôi làng xa xăm của Findhorn, Scotland, nơi những
người dân nói những cái cây trò chuyện với họ. Qua đó ông muốn tìm tới cái cốt
lõi của sự thiền định và tình yêu, hòa bình vẫn là những ý tưởng tốt.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)