20/9/12

Một thoáng Sapa

Tôi dùng kỹ thuật mực nhòe trong bức tranh này.



Hana


Hana(, hoa) là cái tinh hoa của nghệ thuật tuồng nô (Noh) mà các nghệ sĩ phải đạt tới. Trong đoạn 6 của tác phẩm lí luận kinh điển Fuushikaden (khoảng năm 1400) của nhà soạn kịch danh tiếng Zeami có đoạn:
“Về diễn xuất thì có người đạt được kỹ thuật cao nhưng có khi không hiểu gì về tinh thần của Noh, ngược lại, có người không nắm kỹ thuật cho lắm nhưng lại cảm nhận rất tốt về Noh. Khi diễn trước công chúng, người có kỹ thuật cao mà diễn không đạt là vì thiếu cảm nhận về Noh. Vì thế, kẻ mới vào nghề mà đứng trước khán giả lại trổ được cái tinh hoa mà người diễn chuyên nghiệp không có.”

Kinh nghiệm của Zeami cho chúng ta biết rằng cái tinh thần của tuồng nô (và nghệ thuật nói chung) không phải là những qui tắc kĩ thuật biểu diễn với các động tác múa và cách nhả âm giọng mà nó nằm ở cái đam mê hưng phấn của kẻ mới vào nghề. Khi đó kẻ mới vào nghề chưa bị các thói quen diễn xuất hay chính là cái quyền lực của khái niệm ngôn từ chi phối, họ hành động tự do sáng tạo theo cảm nhận tự nhiên về vở diễn. Cái lần đầu kì diệu. Điều này làm chúng ta cảm tưởng tới vẻ đẹp bất tử của mối tình đầu say mê non dại. 
Trong hội họa Trung Hoa cũng có đề cập tới vẻ đẹp hoang sơ của người mới vào nghề, nhưng cuối cùng họ cầu toàn để dẫn đến sự tôn sùng nước đôi là vừa đạt sự tinh xảo, vừa đạt cái ngu ngơ. Còn nhà lí luận Nhật Bản Zeami thì khẳng định rằng: sự chuyên nghiệp cũng tốt đấy, nhưng sức sống của kẻ mới vào nghề còn hay hơn rất nhiều, và nó chỉ tồn tại trong vài lần diễn đầu của người nghệ sĩ.

Một bông tuyết đầu mùa, một cánh hoa anh đào rơi, một mối tình đầu, một cảm xúc bất chợt đến rồi không bao giờ trở lại… Nghệ thuật chính là cái non nớt bất toàn, là cái đam mê dại khờ. Cớ sao phải tiếc nuối! Cớ sao phải cầu toàn! Cái mĩ học của Zeami thật kì diệu, rất mang chất thiền Nhật Bản. 

Ngọn núi cô đơn

Đã có lúc ta thấy mình cô đơn như ngọn núi ngạo nghễ giữa trời...



Seshu Toyo - Bốn mùa

Seshu Toyo (1420-1506) họa sĩ tranh thủy mặc Nhật Bản, nổi tiếng với bộ tranh 12 tháng trong năm dưới đây.















Tề Bạch Thạch vẽ sen


Tề Bạch Thạch (1864-1957) tên thật là Tề Hoàng, tự là Bạch Thạch, quê ở Hồ Nam, nổi tiếng thế giới với biệt tài vẽ tôm. Tề Bạch Thạch lúc đầu là thợ mộc và nghệ nhân vẽ tranh dân gian, sau rồi đi khắp nơi trong nước để tham quan các phong cảnh đẹp và học hỏi về hội họa, văn học. Đến khoảng năm 40 tuổi ông mới bắt đầu vẽ như một họa sĩ thực sự. Không giống như các thiên tài hội họa khác vốn bộc lộ tài năng thiên bẩm từ trẻ, Bạch Thạch là một ví dụ điển hình của tinh thần làm việc và học hỏi không ngừng nghỉ để hướng tới cái Đạo trong nghệ thuật.
Các bức tranh tôm sống động của Bạch Thạch thì ai cũng biết, nhưng các bức tranh vẽ sen của ông cũng rất hấp dẫn.
Tề Bạch Thạch có lối vẽ rất phóng khoáng, giàu chất biểu hiện và chịu ảnh hưởng nhiều từ Bát Đại Sơn Nhân, Thạch Đào. Ông mạnh dạn vẽ những mảng lớn đen đậm tự do để tả lá sen, những đường tự nhiên để tả thân sen, và màu đỏ hoa sen nổi bật lên với vẻ rất …vu vơ. Nét bút của ông hình như không bị gò bó gì cả, rất sắc xảo, điêu luyện mà vẫn giữ được sự vô tư trong sáng.

















Tranh của Thạch Đào



Bức “Đá, hoa và cỏ dại”
    So với Bát Đại Sơn Nhân, Thạch Đào dùng nhiều nét hơn (có thể nói là hơi thừa nét) nhưng lại có khí lực mạnh mẽ hơn. Mỗi ngọn cỏ, bông hoa đều có sức sống riêng của mình nhưng tất cả thống nhất với nhau thành một thể. Nhiều nét đậm nhạt, dài ngắn, dày mỏng, vặn vẹo khác nhau mà không hề loạn. Tư thế chuyển động của mỗi thành phần trong tranh cùng nhau gợi lên cảm giác một cơn gió đang thổi. Ngọn gió lan tràn toàn vũ trụ, chạm vào từng ngọn cỏ, đóa hoa.




Bức “Sen”
Cách thể hiện của bức tranh này nói riêng và phong cách thể hiện của Thạch Đào nói chung rất tự do, phóng khoáng, mạnh mẽ, sống động. Mới nhìn thì tưởng là hỗn loạn nhưng thật ra rất tự nhiên, chặt chẽ và thông suốt theo nhất họa pháp. Các đường nét của đất đá, của hoa sen, của lá sen, của cỏ dại đều liên hệ với nhau, tương đồng với nhau. Bạn có thấy những nét hình chữ “V” thấp thoáng ẩn hiện trong toàn bộ bức tranh không?




Bức “Cảnh núi”
    Lần đầu tiên trong lịch sử tranh núi Trung Hoa có một cách thể hiện lạ lùng, táo bạo như vậy. Thạch Đào dùng các nét mực vỡ nhạy cảm thể hiện gân núi và dùng các chấm tròn nhỏ để tả sắc độ. Tất cả các chấm nét đều tự do, không loạn mà cũng không nguyên tắc. Hình ảnh các ngọn núi hiện ra không phải là “hình núi” mà là “ý núi”. Rất biểu hiện!
Trong am nhỏ là một cư sĩ (hoặc đạo sĩ) đang ngồi chơi cổ cầm. Thạch Đào tả núi hay là tả tiếng đàn? Từng tảng đá, từng ngọn núi như thể là những con sóng dồn dập ngòai biển cả, trào dâng miên man trong tiếng đàn tranh trầm hùng ngất ngây. Núi, biển, đá, sóng, nhạc, và người hợp lại là một. Cái bản thể của vũ trụ ẩn hiện, lan tràn khắp nơi.
Tranh mà không phải tranh. Nhạc mà không phải nhạc.




Bức “Hoa đào ven sông”
    Các mảng mực màu tự do hỗn loạn chèn lên nhau để tả một bờ sông mùa xuân đầy sức sống ẩn hiện chơi vơi trong sương mù. Xa xa là ngọn núi lam vẫn còn lạnh để làm tương phản với không khí ấm áp náo nhiệt của bờ sông.
    Một bố cục phóng khoáng mà chặt chẽ, đơn giản mà đa ý, khác biệt mà thống nhất, tương phản mà chuyển hóa. Thật kì diệu!




Bức “Thác nước ở núi Lư”
Thạch Đào thì tạo một không gian mờ ảo trong làn sương mù, cảnh vừa thực vừa hư, vừa ẩn khuất vừa hiển hiện, có nhịp điệu và tiết độ. Thác nước, núi và cây bị nhòe vào sương mù nhưng thế núi vẫn hùng dũng. Ông dùng các mảng mực để gợi hình ảnh, đôi khi dùng nét vỡ để thể hiện gân núi khỏe khoắn. Nhìn tranh ta thấy không khí hơi nuớc lan tràn khắp nơi, thậm chí có thể ngửi thấy cả mùi hơi nước bốc lên.











Khổ Qua hòa thượng ngữ lục

Thạch Đào (1641-1717) họa sĩ Trung Hoa thiên tài với sự đột phá trong nghệ thuật vẽ tranh thủy mặc, có ảnh hưởng rất lớn tới các lớp họa sĩ sau này như Trịnh Hiệp, Tề Bạch Thạch, Từ Bi Hồng, Trương Đại Thiên... Dưới đây là mọt số trích đoạn trong cuốn "Khổ Qua hòa thượng ngữ lục" của ông. 


“Khởi thủy chưa có phương pháp. Khởi thủy là hỗn mang chưa có phân định. Khi cái hỗn mang ấy phân định thì mới có phương pháp. Vậy phương pháp ra đời như thế nào? Nó ra đời từ một nét, gọi là nhất họa pháp"

"Nếu họa sĩ không hiểu được cái lí muôn vật, không nắm được dáng vẻ bên ngoài của những nội tình tinh tế của sông núi và con người, hoặc bản chất của chim thú cây cỏ, hoặc bản chất của hồ ao, đình tạ và dinh tháp, ấy là vì chưa nắm được cái nguyên lí nhất họa pháp nó xuyên suốt mọi vật vậy"

"Phương pháp được sáng tạo ra cho hội họa, và quá trình sáng tạo ấy làm tan biến các hạn chế. Khi phương pháp và hạn chế không xâm phạm nhau, ấy là lúc đã được hiểu được những xoay vần của trời đất. Lúc ấy cái nguyên lí của hội họa mới được phát lộ và cái nguyên lí của nhất họa pháp mới được thấu hiểu vậy"

"Còn có câu “Bậc chí nhân không có phương pháp gì”. Nói vậy không có nghĩa là họ không có phương pháp, mà là họ có cái phương pháp cao nhất, phương pháp của vô phương pháp"
"Hà cớ gì ta phải dập khuôn theo cổ nhân? Tại sao ta không nuôi dưỡng phát triển sức mạnh của riêng mình?"

"Điều quan trọng là ta phải tôn trọng cái năng khiếu bẩm sinh của mình, không được sao lãng nó. Biết hoặc thấy một bức tranh trong đầu mà không hóa nó ra thành thật là tự cùm trói mình vậy. Người bẩm sinh có tài vẽ phải biết trọng cái năng khiếu của mình, giữ gìn nó, củng cố nó, đừng phung phí nó, mà cũng đừng để nó ngủ vùi trong tâm khảm”
(Trịnh Lữ dịch)

Tôm

Thấy cụ Tề Bạch Thạch vẽ tôm quá hay, tôi cũng muốn thử xem sao.














Lê Quốc Việt - thư pháp tiền vệ




Tương phản

Tương phản là một trong những yếu tố quan trọng nhất của bố cục tranh. Dưới đây là một số loại tương phản  được giảng dạy ở trường Bauhaus của Đức từ trước khi thế chiến thế giới thứ 2 nổ ra. Bauhaus là một trong những cái nôi của kiến trúc hiện đại, đồ họa, nghệ thuật trừu tượng.




Phó Bão Thạch - Lắng nghe mùa xuân

Phó Bão Thạch (1904-1965)



Lý Khả Nhiễm - Ngủ trưa

Lý Khả Nhiễm (1907-1989)



Phong cảnh Lục Đầu giang

Bức này tôi vẽ bằng mực trên giấy dó



Phú Vạn Kiếp


Sáu con sông: Cầu, Thương, Lục Nam, Đuống, Kinh Thầy, Thái Bình hội tụ vào một nơi, gọi là Lục Đầu Giang, linh khí bao trùm cả một vùng châu thổ.
Ở chỗ thung lũng ba phía núi Rồng bao yểm, hai bên tạo thế rồng chầu hổ phục, trước là minh đường của Lục Đầu Giang uốn vào, thật là một địa thế trời cho để dựng nghiệp lớn.
Đức Thánh Trần cách đây gần tám trăm năm ra đời tại Vạn Kiếp, sau dựng phủ đệ và nơi đóng quân, khi qua đời bảy mươi hai nấm mộ thật giả rải rác khắp nơi này.
Xưa, hàng trăm anh hùng khắp nơi về đây tụ nghĩa, làm môn khách dưới trướng của Đại Vương.
Phạm Ngũ Lão một trang hào kiệt văn võ song toàn,
Trần Thì Kiến nổi danh tài hùng biện,
Trương Hán Siêu học vấn cao sâu, mà tài văn chương ít ai sánh kịp,
Yết Kiêu có biệt tài bơi lặn, mà lòng trung kiên hậu thế vẫn noi theo,
Những môn khách khác như Dã Tượng, Ngô Sĩ Thường, Trịnh Dũ, Phạm Lãm, Nguyễn Thế Trực, Nguyễn Địa Lô… đều là những anh hùng cái thế, công lao trong sử sách vẫn ghi.
Nay, ta đứng trước cổng đền Kiếp Bạc, ngước nhìn bốn chữ "Hưng Thiên Vô Cực", ngắm cảnh núi sông hiền hoà trầm mặc mà ẩn tàng sức mạnh bền sâu, nghĩ lại đất nước trải qua bao phen lầm than bởi bọn ngoại xâm và bè lũ trong nước bạc nhược nhưng thời nào cũng có hào kiệt đi ra từ nhân dân, từ linh khí non sông, xúc động nhớ Đại Vương từng nói: "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
Ta lại nhìn hai vế đối ở hai bên cổng đền của cụ Vũ Phạm Hàm:
"Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí
Lục Đầu vô thuỷ bất thu thanh"
nghĩ thế sông núi hiểm trở linh thiêng, anh hùng ẩn phục khắp chốn dân gian, vậy mà sao cứ phải chịu nghịch cảnh bị o ép?
Những mảng tường nơi cổng đền tróc lở,
những bãi phân trâu ngang ngổn khắp sân đường,
những quán hàng xấp xê ghế bạt,
những tiếng mời chào dai dẳng cuộc mưu sinh.

Tất cả cuốn theo nhịp sống thường ngày, quên rằng:
Nằm sâu dưới sân bê tông là gươm đao và những cánh tay Sát Thát,
Trong bùn đen vẫn tanh máu giặc Nguyên Mông.
Bến sông đây ba quân reo hùng khí ngất trời,
Bãi lau kia từng vang lời Hịch tướng sĩ:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”.
Khi ấy, giặc Mông Cổ làm cỏ một nửa thế giới,
khí hung hăng hòng nuốt chửng Đại Việt ta,
nhưng non sông ta sâu hiểm, nhân tài cái thế,
uy dũng phi phàm vượt khỏi sự nghi ngại tử sinh,
Đại Vương làm yên lòng hoàng đế: “Bệ hạ chém đầu thần trước rồi hãy hàng”. 
Đoàn kết nhân dân, đồng lòng tướng sĩ,
phép dụng binh có sẵn chiến lược lâu dài,
quân sĩ hùng hổ giao tranh,
hào khí Đông A ngùn ngụt khắp chiến trường.
Bến Vạn Kiếp,
bản hùng ca dậy chí vạn kiếp người.

Ngẫm vận khí của một quốc gia,
lúc thịnh lúc suy cũng là chuyện dễ hiểu.
Phát triển hùng cường rồi đến kì khủng hoảng,
qua kiếp nạn rồi đến dịp khải hoàn ca.
Nếm mật nằm gai chỉ dài trong mấy khắc,
mà đỉnh vinh quang cũng tựa như lúc ăn một bát phở ngon.
Nhưng cuộc đời cứ âm thầm diễn ra như thế,
lẽ hưng vong tự nhiên mà bại, mà thành.
Vòng quay lịch sử hút chí anh hùng bôn tẩu,
sóng Lục Đầu Giang cuốn những cuộc tỉ thí tang bồng.


Tensho Shubun - Đọc sách trong nhà tre

Tensho Shubun (1414-1463) thiền sư, họa sĩ người Nhật thời kỳ Muromachi. Tranh của ông chịu ảnh hưởng của các họa sĩ Nam Tống Trung Quốc. Dưới đây là bức tranh "Đọc sách trong nhà tre" nổi tiếng của ông.



Tranh của Zeshin Shibata


Zeshin Shibata (1807-1891) xuất hiện trong bối cảnh nước Nhật giao thời giữa giai đoạn Edo và Minh Trị nên tranh của ông có nét khác thường khi so sánh với các họa sĩ cổ điển khác cũng như với các họa sĩ hiện đại sau này (bị ảnh hưởng hội họa phương Tây). Xét về vai trò lịch sử, ông là một họa sĩ tiên phong đổi mới trong thời kì Minh Trị duy tân, một nhân vật có một không hai trong lịch sử hội họa Nhật Bản. Zeshin xuất thân trong một gia đình nghệ sĩ, bố là một nhà điêu khắc, nên bác ta có dịp tiếp xúc với nhiều loại hình nghệ thuật tạo hình truyền thống từ nhỏ. 

Bức “Thác nước”


Gọi là thác nước mà không thấy thác nước ở đâu, chỉ thấy những tảng đã lởm chởm ẩn hiện tự do trên mặt tranh (thực ra vẫn còn vài nét mờ thể hiện nước lồng trong đá, nhưng xét bố cục trong tranh thì nó không có vai trò gì). Bức tranh tự nó đã giải thoát khỏi những khái niệm ngôn ngữ thông thường, ngôn từ không thể nào cản nổi sự vi diệu đang lan tỏa trong nó. Ta không thể nhìn thấy nước nhưng nhờ vào sự sắp xếp của các tảng đá mà ta cảm nhận thấy một thác nước đang ào ào trút xuống, bọt tung trắng xóa, rồi trắc trở luồn qua những khe đá.


Bức “Quả hồng và những con kiến”


Nếu như nhìn vào tên của bức tranh (“Quả hồng và những con kiến”) thì ta sẽ thấy hình ảnh của quả hồng và những con kiến nhưng khi nhìn kĩ ta thấy hình tròn màu đỏ được vẽ đều, không gợi khối nên nó bật ra khỏi màu đen, tạo ra hình ảnh mặt trời ở phía xa. Không nghi ngờ gì nữa, Zeshin vẽ quả hồng mà kết quả tạo thành là một cái khác. Khái niệm “quả hồng” trong cấu trúc nhận thức bị phá vỡ!


Bức “Cảnh biển”


Zeshin vẽ núi ở gần có đầy đủ sắc độ đường nét nhưng cây cổ thụ thì được diễn tả chỉ bằng một sắc độ mực đậm đồng đều. Cách thể hiện như vậy gợi lên trong chúng ta cảnh hoàng hôn mùa thu, và hướng nhìn của tác giả từ dưới nhìn lên bầu trời. Nhưng…Ô hay, sao lại có cái thuyền ở trên bầu trời thế này? Ồ không, đó không phải là bầu trời mà là biến, bức tranh tên là “cảnh biển” mà! Thì ra biển và trời hòa vào nhau không thể nào phân biệt được. Người thì bảo đó là trời, kẻ thì bảo là biển, vậy mà nó chẳng phải là biển, cũng không phải là trời. Nó chỉ là cái tâm giả của ta mà thôi.


Bức “Phong cảnh”


Chỉ cần vài nét vẽ mà Shibata gợi lên được hình ảnh những đỉnh núi mây và tuyết phủ trắng, một rừng cây bắt đầu đâm chồi nảy lộc trong buổi sáng mùa xuân. Rõ ràng, họa sĩ khi vẽ phải ở một trạng thái tĩnh tâm hoàn toàn.


Thủ pháp láy trong bố cục


Láy trong hội hoạ là một thủ pháp dùng các hình thể, màu sắc, bút pháp… gần giống nhau để tạo cấu trúc liên kết thành một tổng thể chặt chẽ nhưng biến chuyển sắc thái tinh tế. Nếu như Thông suốt chủ yếu dụng vào tinh thần của bức vẽ thì Láy dụng vào kỹ thuật thể hiện. Láy cũng là một cách truy tìm dấu vết trên tranh.

Ví dụ bức “Buổi sáng mùa xuân” của Quách Hy
Chúng ta thấy những hình cây trong tranh khá đồng dạng với nhau, rồi những vân núi uốn chuyển cũng tương thích với hình vặn vẹo của cây. Những khối núi với những hình thể được đánh bóng uốn éo cũng gợi lên những âm láy như một bài thơ Đường.



Còn đây, trong bức tranh khắc gỗ “Bãi biển Tanogura” của Hokusai chúng ta lại thấy có sự láy giữa hình ngọn núi Phú Sĩ với chiếc thuyền, giữa hình mây và bãi biển.



Ở tác phẩm “Giấc mơ” dưới đây, Klimt lại dùng thủ pháp láy bằng cách dùng những đường cong khá giống nhau để tả tóc và áo của cô gái.





Đột biến trong bố cục tranh


Trong khi ta vẽ có thể sẽ xuất hiện một sự thay đổi khác hẳn với suy tính ban đầu về bố cục và tư tưởng. Sự đột biến trong bố cục tạo ra một cảm giác hết sức sảng khoái vì nó cho ta thấy rằng không có một quy tắc nào về bố cục; sự đối lập hay chuyển hóa giữa các thành tố sẽ không còn ý nghĩa. Và tác phẩm lại tràn đầy hưng phấn, thoát ly khỏi suy tính lý trí ban đầu.

Ví dụ về bức “Trúc” của Ngô Trấn. Sau khi vẽ xong cành trúc trước gió rất sống động, tác giả viết một bài đề khá dài ở bên trái, phá tan bố cục trung tâm của cành trúc. Tác phẩm trở nên hết sức thú vị.



Còn dưới đây là tác phẩm “Cổng mây” của Anish Kapoor được đặt tại Công viên Millennium ở Chicago. Hãy nhìn xem, giữa một không gian đô thị khô cứng với các khối hộp xuất hiện một khối hình kì dị, phản xạ không gian kiến trúc méo mó bằng lớp kim loại sáng trên bề mặt. Tác phẩm điêu khắc này không đơn thuần chỉ là ý tưởng nghệ thuật mang hơi hướng giải cấu mà còn có giá trị nhân bản, nó gây cảm hứng thú vị cho con người trong không gian đô thị cứng nhắc. Cấu trúc vững chắc của những khối nhà vuông vắn đã bị phá vỡ.



Ở tác phẩm “Đường cong chủ đạo” của Kandinsky ta thấy có nhiều yếu tố đột biến trong nó. Hình chữ nhật ở bên trái, ba hình tròn ở bên phải, một đường cong kì dị ở trung tâm, một màu đen nổi bật trên một tông màu khá hài hòa, rồi hình bậc thang tưởng như chẳng ăn nhập gì với bố cục. Tất cả đều mang một khát khao đột biến, có lẽ đó chính là cái làm nên sự liên kết trong bức tranh.




Chuyển hóa trong bố cục tranh

Khi xét đến bố cục của bức tranh ta xét tới những cặp tương tác sau: sáng - tối, tập trung - phân tán, chính - phụ, xa - gần, tĩnh tại - chuyển động, hài hòa - đột biến, nhịp điệu - rời rạc, tương hỗ - đối chọi... Cấu trúc tương tác giữa các thành tố đối lập đó là sự chuyển hóa cho nhau để xác định lẫn nhau. Có thể sẽ xuất hiện thành tố thứ ba làm trung gian để chuyển hóa những thành tố đối lập hoặc có thể không cần, bởi cái vắng mặt cũng có thể làm sự trung gian. Khi sự đối lập được xác định thì ngay lập tức có sự chuyển hóa.
Tôi lấy bức tranh “Đỏ vàng lam” của Kandinsky để làm ví dụ về sự chuyển hóa.



Ở đây ta thấy Kandinsky dung màu hồng đậm để chuyển từ lam sang đỏ, màu cam để chuyển từ đỏ sang vàng, dùng cung tròn và đường ngoằn ngoèo để chuyển hình tròn sang vuông và tam giác; ông cũng dùng sự tương tác giữa những đường tròn để chuyển hóa sự rời rạc sang tập trung, dùng màu đen để kết nối tất cả các màu. Nếu như ta che một nửa bức tranh để chỉ nhìn một nửa của nó thì thấy rằng màu vàng sẽ không rực rỡ, màu lam sẽ không bí ẩn bằng như khi ngắm toàn bộ bức tranh. Tức là tính chất của màu sắc phụ thuộc vào sự tương tác của nó với các màu khác chứ nó không hề có tự tính nào.

Ngoài sự chuyển hóa về cấu trúc bố cục trong bức tranh ta cũng phải chú ý tới sự chuyển hóa về cấu trúc tư tưởng trong bức tranh. Đó là sự chuyển hóa về không gian, thời gian, lich sử, khái niệm ngôn ngữ... Ví dụ bức "Mùa xuân trên sông Mẫn" của Thạnh Đào





Tuy không khí se lạnh của sương mù trên sông bao trùm trong toàn bộ bức tranh nhưng cây lá vẫn tiềm ẩn sự sống mãnh liệt, đường nét của núi trập trùng khỏe khoắn. Bức tranh tuy vẽ cảnh mùa xuân nhưng núi vẫn còn dáng dấp trơ trụi của mùa đông, và sông vẫn đầy sương mù lạnh giá. Tác giả đã thành công khi tả chuyển mùa trên sông Min.

Ở bức tranh “Guernica” của Picasso ta thấy ngay sự chuyển hóa về sắc độ sáng tối, giữa những đưởng thẳng rõ ràng và những nét mô tả nhân vật. Nhưng cái đáng chú ý nhất ở bức tranh là sự chuyển hóa về chuyển động của các nhân vật.


Chim cánh cụt








Hoàng Công Vọng - Cảnh sông núi Phú Xuân

Hoàng Công Vọng (1269-1354) có lối vẽ phong cảnh ấn tượng, ảnh hưởng rất lớn tới các họa sĩ thời Minh, Thanh sau này như Vương Thời Mẫn, Vương Giám, Vương Huy, Vương Nguyên Kỳ, thậm chí cả Thẩm Chu, Văn Trưng Minh. Bức "Phú Xuân sơn cư đồ" được coi là một trong 10 bức tranh phong cảnh đẹp nhất trong lịch sử hội họa Trung Hoa.


Lưu Tùng Niên - Phong cảnh

Lưu Tùng Niên (1180-1220) là một trong những họa sĩ xuất sắc nhất thời Nam Tống, có cách vẽ thiên về tả thực, đặc biệt ông miêu tả phong cảnh bằng đường nét và sắc độ tinh tế, ảnh hưởng lớn tới các họa sĩ thời Minh nổi tiếng sau này như Đường Dần, Cừu Anh,... Bản thân Lưu Tùng Niên lại chịu ảnh hưởng từ họa sĩ Lý Tư Huấn (651-716). Dưới đây là bộ tứ bình vẽ phong cảnh của ông.