Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn
chi đồ
chìm và nổi
Phạm Văn Tuấn
Nguyễn Hữu Sử
Vào
tháng 4-2012, công chúng mới được thấy rõ diện mạo bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất
sơn đồ . Với một bản chép lại được bán đấu giá 1,8 triệu USD. Bức tranh có số
phận thế nào? Nội dung bức tranh bao gồm những gì? Và còn những điều gì ẩn chứa
đằng sau tác phẩm đó?
Số phận lênh đênh của Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi
đồ
Trúc
Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ được cho là do họa sĩ Trần Giám Như người Trung Quốc
vẽ năm 1363. Là báu vật trong kho tàng của Hạng Nguyên Biện - một giám thưởng
gia nổi tiếng vào đời Minh sang đời Thanh, nó được giữ trong Cố Cung như một quốc
bảo. Có thể thấy điều này qua rất nhiều ấn chương của Càn Long, Gia Khánh hay
Tuyên Thống. Năm 1922, Phổ Nghi - Hoàng
đế cuối cùng nhà Thanh - tuy đã thoái vị nhưng vẫn ở trong Tử cấm thành, bí mật
“tuồn” ra ngoài hơn 1.300 bảo vật, trong đó có cả bức thư họa này. Lưu lạc
trong chiến cuộc, đến năm 1949, số báu vật nói trên mới được đưa vào Bảo tàng
Đông Bắc (nay là Bảo tàng Liêu Ninh) lưu giữ, công chúng không mấy dịp được
chiêm ngưỡng nữa. Bức Trúc Lâm đại sĩ
cũng vì thế mà biệt tích. Năm 2004, Bảo tàng Liêu Ninh triển lãm và công bố các
báu vật bị thất tán thời Phổ Nghi, nhưng cũng phải đến bản chép lại được bán đấu
giá 1,8 triệu USD vào tháng 4-2012, công chúng mới được thấy rõ diện mạo bức
tranh.
Nội dung trúc lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ
Bức
tranh được cho là hoàn thành vào năm 1363 bởi họa sư Trần Giám Như, sau đó được
các danh sĩ đời Minh viết thêm lời bình dẫn, tôn vinh. Thư pháp đặc sắc của họ
hợp cùng họa phẩm tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật thư – họa, có tổng chiều dài
lên đến 9.61m trong đó 316 x 28cm là phần lòng tranh.
Với tổng số 82 nhân vật, tranh là một chỉnh thể giữa cảnh mây trời, sông núi, sự vật và những người
từ núi ra cũng như người đến đón. Nhân
vật chính trong bức họa là Phật hoàng Trần Nhân Tông ngồi trên võng từ động Vũ
Lâm xuất du xuống núi với hình ảnh mày dài, có
râu, tai to, tay lần tràng hạt. Phía
đoàn đón rước có 61 người, dẫn đoàn là vua Trần Anh Tông cùng các tuỳ tùng. Đầu tranh là nhóm phục vụ:
Áo chẽn đến nách, cầm gậy, trên
trông như lông chim; tiếp sau là nhóm nghi trượng có 10 người. Nhóm này với tay cầm nghi
trượng, áo cụt đến khuỷu tay. Nhóm khiêng ngai, kiệu, dắt ngựa, cầm đao ..vv…. nhóm
này chiếm số đông. Nhóm phục vụ này đều đi chân đất. Nhóm quan lại phía trước
Anh Tông, gồm: 2 quan võ cầm gươm và 5 quan văn. Nhóm này đều đi giầy nghiêm cẩn,
tay chắp tôn kính. Đặc biệt nhóm từ vua Anh Tông ra đón mũ đều giống nhau và tất
cả đều hướng về phía Trần Nhân tông và những người từ núi ra. Nhưng người từ
núi ra có 21 người: Trần Nhân Tông, đạo sĩ Lâm Thời Vũ cùng 5 tăng nhân Ấn Độ với 8 tăng sĩ có lẽ là đệ tử của Nhân Tông, 6 người đi theo có 4 khiêng khiêng kiệu và 2 cầm quạt
và lọng. Hai đệ tử của Nhân Tông, 1 cầm gậy trúc, 1 cầm phất trần, còn lại đi
phía sau có đạo sĩ Lâm Thời Vũ cưỡi trâu, tăng nhân Ấn Độ tay cầm tích trượng, bình bát, kinh quyển. Trong đó một
tăng nhân được một tăng sĩ người Việt cầm dậy dắt đi. Có lẽ vị tăng này đã quá
già, hoặc chăng đường đi dài đã mệt vì khó. Có một số tăng nhân Ấn Độ đi cùng, với đặc trưng về
dị tộc rất đặc thù qua mũi nhọn và râu tóc cho thấy sự khác biệt với người Á
đông. Điều đặc biệt trong nhóm
từ núi ra là hình ảnh con voi trắng chở kinh đi phía sau và chim hạc dẫn đường ở phía trước đoàn của vua. Hình ảnh
chim hạc chỉ cho thanh cao đạo cốt thì hình ảnh voi chở kinh là khá đặc biệt. Voi gắn với truyền thống Phật giáo
từ thời Đức Phật và cũng gắn liền với các nước Đông Nam Á. Voi với trang trí
trên thân nó gợi lên những hình ảnh voi trong trang trí tạo hình ở Đông nam á,
cụ thể là Lào – Campuchia – Thái lan, mà rất có thể con voi này là một hình ảnh
voi từ Champa chuyển đến.
Màu sắc đen trắng của thủy mặc, cùng các điểm nhấn là con người, những
cây tùng cổ thụ, cỏ dại ven đường, núi và mây tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ về không
gian và thời gian. Người, voi, ngựa, trâu, hạc cùng võng lọng, ngai, nghi trượng….tạo
nên một chỉnh thể hoàn chỉnh về bố cục của bức tranh. Nét vẽ tinh tế, chấm phá
kĩ pháp điêu luyện, điểm xuyến đậm nhạt của màu sắc nơi dáng người, quần áo, mũ
nón, quạt, quang gánh, lá cây, mây lượn cũng như nước chảy….cho thấy sự tinh tế
và điêu luyện của người cầm bút vẽ. Ngoài ra, phần triện của các nơi thu tàng
cùng với điểm thư pháp trước sau tác phẩm làm cho tác phẩm cổ phác và trang trọng,
tạo nên một tác phẩm hoàn mỹ.
Ấn triện và thư pháp trong
tranh
Về cơ bản trong tranh được sử dụng hai loại triện.
1.
Thâu tàng gia – danh gia: Đề bạt: Trần Đăng, Trần Quang Chỉ, Dư Đỉnh…..Tàng gia: ho Hạng.
2.
Nhà nước: các triện nhà Thanh như: Tam hi đường tinh giám (三希堂精鉴玺), Càn Long cung giám
tàng bảo, Gia Khánh ngự lãm chi bảo, Tuyên Thống ngự lãm chi bảo.
Triện được đóng theo từng thời gian, đến nay có thể xác định triện của
nhóm tác giả đề bạt đầu và sau tranh vào các năm 1420-1423 là sớm nhất. Về sau
là triện của thu tàng gia họ Hạng, đến triện của cung Càn Thanh từ Càn Long đến
Tuyên Thống. Trải qua mấy trăm năm và dấu ấn của triện để lại cũng chính là dấu
ấn thời gian cũng như mức độ trân quý của tác phẩm Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi
đồ qua các thời kì ở Trung Quốc.
Thư pháp trong tranh khá nhiều, bởi những danh gia như Trần Đăng đứng bậc
thượng thủ đương triều nhà Minh khi viết tên tranh. Ngay tranh là bài đề vào
sau tranh của Trần Quang Chỉ. Trần Quang Chỉ có lẽ là người cầm bức tranh để
xin các danh gia đề bạt, bởi trong phần viết của Tăng Khải nói rằng Quang Chỉ cầm
tranh này xin ông dề từ. Quang Chỉ để lại một bài tổng thuật bằng chữ chân
phương, nét chữ cương kiện, ngay ngắn, tạo nên chỉnh thể phía sau bức tranh.
Ngoài ra, Dư Đỉnh, Tăng Khải, Thượng Đạo Nhân Lâm Phục, tăng nhân trong tăng lục
ti là Bạc Hiệp, Dự Chương Ngô Đại Tiết viết theo lối hành thư; sa môn Đức Thủy,
Kim môn Ngoại sử Viên Chỉ An, Tây Bích viết lối chữ hành thảo. Mỗi thể, mỗi loại,
mỗi tác giả, đều để lại những dấu ấn cũng như sự uyển chuyển và chắc chắn của
chương pháp, bố cục tạo nên một chỉnh thể hài hòa hợp nhất giữa phần tranh và
phần chữ.
Tác giả và những người đề bạt trong tác phẩm
– họ là ai?
Ngoài Trần Giám Như là người đề vào tranh với niên đại 1363, về sau,
tranh được các danh gia viết triện ngạch tên cũng như các đề từ. Thông qua các
bài tựa bạt, cho thông tin Trần Quang Chỉ là người giữ tranh những năm đầu thế
kỉ XV khi ông nhờ Tăng Khải viết cho một bài. Cũng trong thời gian từ năm 1420
đến 1423 có thêm nhiều danh nhân hoặc là quan trong triều như Dư Đỉnh, Tăng Khải;
hoặc là đạo sĩ, tăng nhân như sa môn Đức Thủy, Thượng đạo nhân Lâm Phục….tuy
nhiên, dấu ấn để lại vẫn là người đề lạc khoản cuối tranh Trần Giám Như cũng
như Trần Đăng. Về Trần Quang Chỉ, người đề sau tranh đến nay tư liệu không còn
gì ngoài thông tin từ tranh cho biết ông theo đạo Phật và người ở sông Lô. Cơ bản,
những người này đều danh nhân đầu triều, tên tuổi còn mãi. Dưới đây là phần giới
thiệu về Trần Giám Như, Trần Đăng, Dư Đỉnh và một người sưu tập là Hạng Nguyên
Biện:
Về Trần Giám Như, theo các tư liệu thời Nguyên
như Đồ Hội bảo giám, 5 quyển, sách do Hạ Văn Ngạn thời Nguyên soạn, Họa sử Hội yếu quyển 3, do Chu Mưu Nhân thời Minh soạn, Ngự định Bội văn trai thư họa phổ, quyển 53, phần họa
gia thứ 9, sách thời Thanh cho biết rằng ông sống ở Hàng Châu, nguyên văn: “Trần
Giám Như cư Hàng Châu 陳鑑如居杭州 – Trần Giám Như sống ở Hàng
Châu”. Như thế không thể kiểm chứng được Trần Giám Như là
người Trung Quốc hay không, thông tin như thế chỉ cho thấy ông sống ở Trung Quốc
mà thôi. Ngoài ta, các
thư tịch thời Nguyên về sau đều ghi Giám Như là môn hạ của Triệu Mạnh Phủ (1254
– 1322), từng nhiều lần vẽ tranh Mạnh Phủ. Điều này cho thấy Trần Giám Như sống
trong khoảng thời gian trước năm 1322 và đến những năm 1363 khi bức tranh được
đề từ.
Vậy thì Trần Giám Như là người
Việt Nam? Qua bức tranh, chúng ta thấy ông vẽ rất thật con người, con vật, tỉ lệ,
không gian….của người Việt. Hoặc chăng sau khi Mạnh Phủ chết (1322) Giám Như vẫn
đương là họa gia đứng đầu trong triều, nhưng ông đã sang Đại Việt và vẽ bức
tranh vào năm 1363? Các học giả hiện đại của Trung Hoa nghi ngờ khả năng Giám
Như không phải là tác giả của tranh.
Trần Đăng (1362 – 1428), tên tự
là Tư Hiếu, người Trường Lạc, giữ chức Trung thư xá nhân triều Vĩnh Lạc. Ông được
xưng tụng: phàm là quốc gia có văn chế tác bằng chữ triện to lớn đều từ tay
Đăng mà ra cả - 凡國家有大制作篆籀之文皆出登手. Trần Đăng là bậc thượng thủ
viết triện thời Minh, hiện còn nhiều tác phẩm để lại. Có lẽ khi viết bài cho
tranh, Dư Đỉnh cũng được Trần Quang Chỉ mờiDư Đỉnh có đoạn viết: Nam giao
chi nhân, hội kì nhất thời chi sự, lạc vi truyền quan - Người Nam giao vẽ
lại sự kiện nhất thời, và vui vẻ truyền xem. Tăng Khải cho biết bài tán ông
viết sau khi được người học Phật ở đất Lô Giang là Trần Quang Chỉ thỉnh
mời.
Còn một nhân vật khác không thể
không nhắc tới đó là Hạng Nguyên Biện 项元汴(1525 – 1590). Họa sĩ, nhà sưu tập, tên tự là Tử Kinh 子京, tên hiệu là Mặc Lâm 墨林, lại có tên hiệu là Hương
Nghiêm cư sĩ, Thoái Mật Trai chủ nhân, Huệ Tuyền Sơn Tiêu, Uyên Ương Hồ Trường,
Tất Nguyên Ngạo Lại, Tĩnh Nhân Am chủ nhân…. người Triết Giang. Nhà ông giàu có nên thu tàng
nhiều tác phẩm thư pháp hội họa của các họa gia nổi tiếng, đứng đầu vùng Giang
Nam. Do ông thu tập lâu ngày mà nhiễm dần, trở thành thư họa gia. Ông giỏi vẽ
Trúc mai lan. Trong Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ được đóng rất nhiều ấn triện
của ông.
Trúc Lâm đại sĩ với văn hóa Việt Nam
Từ dòng chảy của thời gian,
qua thời nguyên, Minh, Thanh về sau, Trúc
lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ không chỉ được xuất hiện bằng hình thức tranh vẽ
trên giấy mà còn được xuất hiện qua các hình thức khác. Không chỉ trong tranh,
lưu truyền trong hàng sĩ đại phu Trung Quốc, nội dung bức tranh còn được các
danh gia chế tác thành nghiên bằng đá thời Minh, nghiên gốm thời Thanh, đến nay
còn lưu truyền.
Một số ghi chép của Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ được ghi
chép trong Thạch cừ bảo cấp tuc biên
thời Thanh về thân thế sự nghiệp Nhân Tông, như mộng trao bảo kiếm, xuất gia ở
động Vũ Lâm – Ninh Bình…đều phù hợp với nội dung trong thư tịch Phật giáo Việt
Nam cũng như Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT, trang 433 tập 2 viết: Ất
Mùi, [Hưng Long] năm thứ 3 [1295…Mùa hạ, tháng 6, Thượng hoàng trở về kinh
sư. Vì [trước] đã xuất gia ở hành cung Vũ Lâm rồi lại trở về).
Hình ảnh Nhân Tông từ động Vũ lâm ra, phía sau có tăng nhân Ấn Độ cũng
như voi trắng cho kinh, phần nào cho thấy dấu ấn Phật giáo Ninh Bình thời Trần.
Trong bia tháp Linh tế, Trương Hán Siêu soạn còn lưu lại hình ảnh vị tăng sĩ
Trí Nhu Thiền sư là đệ tử của Pháp Loa, từng phát triển tông phái Trúc Lâm ở
Ninh Bình. Điều này cùng với bức tranh đặt ra những nghi vấn về nền thịnh trị
Phật Giáo Ninh Bình không chỉ dừng lại sau khi kinh đô Hoa Lư chuyển ra thành
Thăng Long thời Lý. Mức độ trù mật của vùng tôn giáo văn hóa chính trị Hoa Lư
còn bảo lưu đến Lý Trần về sau. Nhân Tông xuất gia ở đây cũng là một nhân duyên
như thế.
Trong bài đề của mình Trần
Quang Chỉ nói đến Truyền đăng lục là sách nào? Là Tam tổ thực lục?! Hay là là
Thánh đăng ngữ lục!? Thông qua bài viết của Trần Quang Chỉ cho thấy nhiều nội
dung có trong Tam Tổ thực lục chứ không phải ở trong Thánh đăng ngữ lục. Tuy
nhiên, so sánh thông tin với ĐVSKTT nói việc Nhân Tông ở Động Vũ Lâm năm 1295
thì nội dung trong đề bạt nhiều điểm giống với nội dung Thánh Đăng ngữ lục, Tam
tổ thực lục, ĐVKTT…trong thư tịch Phật giáo hiện còn.
Không chỉ nhân vật, trong tranh chúng ta gặp những hình ảnh như quang
gánh, võng, lọng, nghi trượng rất Việt Nam. Quần áo, mũ quạt…đều thể hiện những
vật dụng của một thời kì mà đến nay chúng ta không biết được. Kiểm chứng là
hình ảnh của Trung Quốc hay Việt Nam qua những nét vẽ về quần áo trang phục, hoặc
cây cỏ, chim muông, cần nhiều thời gian. Tuy nhiên những hình ảnh trong tranh
đã cho chúng ta nhìn thấy cơ bản một không gian con người với cảnh tình và tông
giáo một thời cách đây mấy trăm năm gắn liền với Trúc Lâm đệ nhất tổ Trần Nhân
Tông.
Bài
viết này chỉ mang mục đích giới thiệu sơ lược về toàn cảnh bức tranh Trúc Lâm đại
sĩ xuất sơn chi đồ vẽ về Trần Nhân Tông ra
khỏi vùng núi Vũ Lâm. Giới thiệu về bức tranh cũng là mong muốn gợi ra những
hướng đi nghiên cứu về những hình ảnh thời
Trần, đặc biệt gắn liền với Trần Nhân Tông trong một mối tương
quan văn hoá của Việt Nam. Nghiên cú về Trúc Lâm
đại sĩ xuất sơn chi đồ, chắc rằng sẽ còn nhiều chuyên luận chuyên sâu, bài viết này tạm xem như một hướng gợi mở.