26/9/12
Họa phái Nanga
Họa phái Nanga được thành lập vào thời kỳ Edo (thế kỷ
XVIII) với mục đích hướng về hội họa Nam phái của Trung Hoa. Các đại biểu chính
là Kameda Bosai (1752-1826), Tani Buncho (1763-1841), Hanabusa Itcho
(1652-1724), Ike no Taiga (1723-1776) và Tomioka Tessai (1837-1924).
Ước muốn một chỗ trên núi trong trái tim - Kameda Bosai
Bát tiên - Tani Buncho
Thần sấm - Hanabusa Itcho
Hai vị thần nhảy - Tomioka Tessai
Họa phái Shijo
Họa phái Shijo ra đời vào cuối thế kỷ XVIII với mục
đích kết hợp hội họa truyền thống Nhật Bản với hội họa Trung Hoa và hội họa
phương Tây. Những đại diện tiêu biểu của họa phái này là Matsumura Goshun
(1752-1811), Maruyama Okyo (1733-1795), Kikuchi Yosai (1781-1878) và đặc biệt
là Shibata Zeshin (1807-1891). Dưới đây là một số bức tranh nổi tiếng của phái này.
Những con quạ - Maruyama Okyo
Chú diệc trên gốc cây - Matsumura Goshun
Chân dung tự họa - Kikuchi Yosai
Họa phái Rimpa
Họa phái Rimpa được thành lập vào thế kỷ XVII ở
Kyoto bởi Honami Koetsu và Tawarayana Sotatsu với tầm hoạt động trong nhiều
lĩnh vực như tranh vẽ, thư pháp, tranh trí nội thất, thiết kế kimono... Những
người thuộc phái Rimpa bao gồm cả họa sĩ và nghệ nhân.
Fujin và Raijin - Tawarayana Sotatsu (mực và vàng lá trên giấy)
Hoa cỏ mùa xuân (không rõ tác giả, mực và vàng lá trên giấy)
Hoa mùa thu và mặt trăng - Sakai Hoitsu (1761-1828)
Kano Masanobu - Chu Đôn Di thưởng ngoạn hoa sen
Kano Masanobu (1434-1530) được coi là người sáng lập họa phái Kano và là một trong những họa sĩ xuất sắc nhất thời kì Muromachi (cùng với Josetsu, Tensho Shubun, Sesshu Toyo). Kano Masanobu cũng là người ảnh hưởng lớn tới Tensho Shubun.
Kaiho Yusho - Những nhà thơ Trung Quốc và tiểu đồng
Kaiho Yusho (1533-1615) là một trong những họa sĩ nổi tiếng thời Azuchi Momoyama (cùng với Kano Etoku, Kano Sanraku, Hasegawa Tohaku.
Một số tranh vẽ phụ nữ của Nguyễn Phan Chánh
Những người phụ nữ
trong tranh của Nguyễn Phan Chánh chủ yếu là những người bình di ở nông thôn . Chất
liệu lụa diễn tả được làn da trắng mát và dáng vẻ mềm mại uyển chuyển của người
phụ nữ.
Chải tóc
Soi gương
Rửa rau cầu ao
Cô hàng xén
Tắm sớm
Trăng lu
Nguyễn Phan Chánh - Đám rước
Nguyễn Phan Chánh xây dựng
tác phẩm trên cơ sở cách nhìn phức hợp giữa hội hoạ và nhiếp ảnh, dùng ngôn ngữ
hội hoạ để giải trình và biểu cảm. Ở hội hoạ Việt Nam, cho đến nay tìm được
cách nhìn lạ như vậy thực sự hiếm. Nguyễn Phan Chánh tạo ra một đám rước sinh động
dựa vào những chiếc nón và khoảng trống, với tài điều hành đậm nhạt của bậc thầy
về lụa, khiến cho “Đám rước” của ông suốt 70 năm qua
đã đi không biết mỏi trên con đường nghệ thuật. Gam màu của “Đám rước” là màu ốc
nhũ, một bảng màu đã khai thác triệt để chất của nền lụa, đặt lên đó là cung bậc
nhịp nhàng, uyển chuyển của màu nâu thiền trầm mặc, khiến “Đám
rước” trở nên huyền bí lạ thường. Đây là một bức hoạ vẽ ít mà
được nhiều, nó giản dị mà không kém vẻ thanh cao… Trong một tác phẩm có được
cái siêu đến đạo mà vẫn giữ được sự phàm trần bình dị quả là có một không hai.
Lê Thị Lựu - Chân dung em bé
Lê Thị Lựu (1911-1988) là nữ họa sĩ duy
nhất tốt nghiệp khóa I trường Mỹ thuật Đông Dương. Nhìn lại tranh lụa của những
bậc thầy đầu thế kỷ XX thì tranh của Nguyễn Phan Chánh mộc mạc dân dã, tranh của
Mai Trung thứ hồn nhiên trẻ trung, tranh của Lê Phổ quý phái, còn tranh lụa của
Lê Thị Lựu êm dịu trong ánh sáng, nhẹ nhàng trong màu sắc, mềm mại trong nét
bút.
Lê Văn Đệ - Nắng hè
Lê Văn Đệ (1906-1966) là một họa sĩ tốt
nghiệp khóa I trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1930 và cũng là Giám đốc đầu tiên của trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn (1954-1966).
Tranh lụa Mai Trung Thứ
Mai Trung
Thứ (1906-1980) là một hoạ sĩ nổi
tiếng của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Ông là một trong những họa sĩ tốt nghiệp khóa đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925-1930) cùng với Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ.
Mai Trung Thứ được coi là họa sĩ
góp phần quan trọng tạo nên sự phong phú về mầu sắc của chất liệu tranh lụa Việt
Nam đương thời ông. Đề tài yêu thích của ông là về phụ nữ, trẻ em và cuộc sống
hàng ngày với cái nhìn mang đầy mầu sắc dân gian và bản sắc văn hóa truyền thống
của Việt Nam. Ông đã đặt vào mảnh lụa những hòa sắc lung linh huyền ảo của chủ
nghĩa ấn tượng nhưng lại tránh sa vào thái độ duy lý thẩm mỹ của chủ nghĩa này.
Những cuộc trưng bày các tác phẩm của ông tại nhiều triển lãm trên thế giới đã góp
phần giúp hội họa hiện đại Việt Nam được biết đến nhiều hơn tại phương Tây.
Hòa âm
Thiếu nữ khỏa thân
Thiếu nữ bên cửa sổ
Trẻ chơi đùa
Một số tranh vẽ trẻ em của Nguyễn Phan Chánh
Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) được coi là họa sỹ
đã khai phá loại hình tranh lụa hiện đại Việt Nam. Những bức vẽ thành công của
ông có một phong vị đặc biệt Việt Nam, đồng thời phù hợp với quan niệm hội họa
hiện đại: những mảng màu đơn giản, ấm áp, nhuần nhị, những đường viền mềm mại,
những khoảng trống rất đúng chỗ. Ngoài ra, nhân vật và bối cảnh Việt Nam được
nghiên cứu đơn giản và cách điệu độc đáo.
Suốt cuộc đời làm nghệ
thuật, Nguyễn Phan Chánh đã để lại một sự nghiệp đồ sộ với số lượng ước khoảng
trên 170 tác phẩm. Ông là người đang giữ kỷ lục về số tác phẩm được trưng bày tại
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Chơi ô ăn quan
Thầy và trò
Em bé cho chim ăn
Học vẽ
Phụ nữ trong tranh lụa của Lê Phổ
Lê Phổ (1907-2001) là bậc thầy tranh lụa của Việt Nam nổi tiếng với những bức tranh lụa vẽ phụ nữ theo phong cách hậu ấn tượng và chớm hiện đại.
Ông Corinne de Menonville đã nhận xét trong cuốn sách "Những tác
phẩm hội hoạ Việt Nam (sách)" như sau: "Ở giai đoạn đầu, người phụ nữ (trong tranh Lê Phổ) thường mỏng manh,
e ấp, khuôn mặt trái xoan, có ánh sáng tạo hiệu ứng cho hồn tranh. Họ đều toát
nên sự trang nhã, nhẹ nhàng, duyên dáng, lịch thiệp. Với tranh lụa, màu sắc
nguyên chất và đậm sắc thái tạo nên khung cảnh lãng mạn. Giai đoạn tiếp theo, tranh sơn dầu vẫn
đặt phụ nữ là tâm điểm, nhưng có thêm những cảm giác về tự do qua cử chỉ và màu
sắc. Tranh lụa, người vẽ mất nhiều thời gian, cần sự tinh tế và tỉ mỉ, trong
khi tranh sơn dầu, người nghệ sĩ được phép sáng tạo hơn với nhiều cử động và
mức độ của màu sắc.
Ảnh hưởng bởi trường phái ấn tượng, các tác phẩm thời gian này thể hiện sự tự do,
tính hoa mỹ, hân hoan trong ánh sáng,
nhịp nhàng trong nét cọ".
Nhà phê bình Waldemar thì
viết: "Một con thuyền lướt
giữa những bông súng, những cô gái ẩn hiện hái trái cây trong vườn địa đàng, họ thật kiểu cách và được
nhớ đến bởi sự duyên dáng, niềm vui của cuộc sống phát ra từ tất cả, trong tiết trời
xuân vô tận, những thiếu nữ mảnh mai đang dùng bữa trưa trên một hiên nhà,
những đĩa trái cây trên bàn phủ khăn, bình đựng đầy hoa dại: thế giới của Lê
Phổ là một thiên đường trên trái đất".
Hoài cố hương
Thiếu nữ trong vườn
Cô thợ may
Cô gái với khăn quàng cổ xanh
Chân dung Phùng Khắc Khoan
Bức tranh chân dung Phùng Khắc Khoan (1528-1613) được vẽ vào thế kỉ XVIII-XIX, không rõ tác giả là ai.
Chân dung Nguyễn Trãi
Bức chân dung Nguyễn Trãi (1380-1442) bằng lụa này hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam được vẽ vào thời Nguyễn, không rõ tác giả là ai và bức gốc để bức này được chép ra không biết bị thất lạc thế nào.
Kỹ thuật vẽ tranh lụa
Người
ta thường dùng mực nho, màu nước để vẽ lên lụa thì sẽ trong,
còn muốn đục thì dùng tempera, bột màu, phấn màu. Hội họa Việt Nam vốn không mạnh
về dòng tranh thủy mặc nhưng dòng tranh lụa hiện đại phát triển khá mạnh với những
họa sĩ nổi tiếng như Nguyễn Phan Chánh,
Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu...
Lụa trước khi vẽ phải căng lên khung. Thông thường, lụa mới được
quét một lớp hồ loãng, người vẽ nên rửa qua lớp hồ này để màu có thể ngấm vào
thớ lụa. Nếu lụa hút nhiều nước như lụa Trung Quốc thì nên quét một lớp hồ
loãng lên trên, có pha lẫn một ít phèn
chua để chống mốc.
Điểm mạnh của
tranh lụa là ở sự trong trẻo và êm dịu của màu sắc, vì vậy phần lớn người vẽ
tranh lụa thường xây dựng phác thảo (hình, mảng) hết sức kỹ càng trước khi thể
hiện lên lụa. Nhiều người sử dụng cách can
hình từ bản can giấy lên lụa để lưu lại nét một cách chính xác. Tuy nhiên cũng
có thể vẽ lụa một cách thoải mái.
Khi vẽ lụa, người
ta thường vẽ từ nhạt đến đậm, màu nhạt chồng lên nhau nhiều lần sẽ thành đậm
nhưng vẫn nhìn thấy thớ lụa tạo nên vẻ đẹp của chất lụa. Vẽ chồng lên nhau bằng
các màu khác nhau cũng là một cách pha màu. Thỉnh thoảng, khi màu đã khô, phải
rửa nhẹ cho sạch những chất bẩn nổi lên mặt lụa và để cho màu ngấm vào từng thớ
lụa.
Muốn cho các mảng
màu cạnh nhau hòa vào với nhau không còn ranh giới tách bạch, tạo ra một hiệu
quả mềm mại, mờ ảo, người ta vẽ khi mặt lụa còn hơi ẩm và không cần viền nét
nữa.
Có thể sử dụng bột
điệp và bạc thêm vào tranh lụa (dán ở mặt sau).
Tranh lụa vẽ xong
thường được bồi lên một lớp giấy, sau khi khô hoàn toàn, họa sĩ có thể rạch
phần tranh ra khỏi khung lụa để đưa vào khung. Tranh lụa tăng hiệu quả thẩm mỹ
nhiều khi với khung kính.
Một số lỗi khi vẽ tranh
Quách Hy dạy rằng:
Có nhiều lỗi do thiên vị một chiều. Vẽ núi lởm chởm nhiều quá thì tranh hóa bừa bộn; không khí xa lánh quá thì dễ thành lạnh nhạt. Nhiều nhân vật dễ thành dung tục, nhiều nhà cửa dễ thành đông đúc. Vẽ đá nhiều nét xương quá thì thành cứng.
Nước mà không đủ độ động thì gọi là nước chết. Mây không đủ tự nhiên thành đóng băng. Núi không đủ sáng tối gọi là thiếu sắc độ, còn vẽ lộ hết ra gọi là thiếu sinh khí.
Sương mù lẩn khuất, nếu không vẽ sự vật chỗ ẩn chỗ hiện thì không tả được sự vận chuyển của khí hơi.
Núi không mây ví như mùa xuân không có hoa nở.
Núi thiếu mây thì mất thanh tú, thiếu suối thác thì mất hấp dẫn, thiếu lối mòn thì mất cảm giác có sự sống, thiếu cây cỏ thì mất sinh khí.
Không có thẩm viễn (từ bên trong rìa núi nhìn ra) thì chúng thành phẳng lì. Không có bình viễn (nhìn về phía xa) thì chúng thành như ở ngay trước mặt. Không có cao viễn (từ dưới thấp nhìn lên) thì chúng thành thấp lùn. Đó là ba luật viễn cận.
Có nhiều lỗi do thiên vị một chiều. Vẽ núi lởm chởm nhiều quá thì tranh hóa bừa bộn; không khí xa lánh quá thì dễ thành lạnh nhạt. Nhiều nhân vật dễ thành dung tục, nhiều nhà cửa dễ thành đông đúc. Vẽ đá nhiều nét xương quá thì thành cứng.
Nước mà không đủ độ động thì gọi là nước chết. Mây không đủ tự nhiên thành đóng băng. Núi không đủ sáng tối gọi là thiếu sắc độ, còn vẽ lộ hết ra gọi là thiếu sinh khí.
Sương mù lẩn khuất, nếu không vẽ sự vật chỗ ẩn chỗ hiện thì không tả được sự vận chuyển của khí hơi.
Núi không mây ví như mùa xuân không có hoa nở.
Núi thiếu mây thì mất thanh tú, thiếu suối thác thì mất hấp dẫn, thiếu lối mòn thì mất cảm giác có sự sống, thiếu cây cỏ thì mất sinh khí.
Không có thẩm viễn (từ bên trong rìa núi nhìn ra) thì chúng thành phẳng lì. Không có bình viễn (nhìn về phía xa) thì chúng thành như ở ngay trước mặt. Không có cao viễn (từ dưới thấp nhìn lên) thì chúng thành thấp lùn. Đó là ba luật viễn cận.
Một số thế núi cơ bản
Theo Vương Duy có một số thê núi cơ bản sau mà họa sĩ vẽ phong cảnh phải nắm được:
Điền: những ngọn núi bằng phẳng.
Lăng: một rặng đồi nối hai trái núi với nhau.
Tụ: một khe cắt trên đường đỉnh núi.
Ải: một vách đá dựng đứng
Xuyên: một thung lũng hẹp có tảng đá.
Hách: một thung lũng kín.
Tuyền: một con suối chảy giữa hai sườn núi.
Lĩnh: trong dãy núi có một đỉnh núi nhô cao hẳn lên.
Bàn: chỗ đất trải dài trên một bình nguyên phẳng phiu.
Ngoài ra khi vẽ thế núi phải chú ý núi chủ - núi khách, núi chính - núi phụ...
Điền: những ngọn núi bằng phẳng.
Lăng: một rặng đồi nối hai trái núi với nhau.
Tụ: một khe cắt trên đường đỉnh núi.
Ải: một vách đá dựng đứng
Xuyên: một thung lũng hẹp có tảng đá.
Hách: một thung lũng kín.
Tuyền: một con suối chảy giữa hai sườn núi.
Lĩnh: trong dãy núi có một đỉnh núi nhô cao hẳn lên.
Bàn: chỗ đất trải dài trên một bình nguyên phẳng phiu.
Ngoài ra khi vẽ thế núi phải chú ý núi chủ - núi khách, núi chính - núi phụ...
Lối tắt của Thạch Đào
Lối tắt là cách Thạch Đào nói về những kiểu bố cục đặc
biệt. Theo ông có 6 loại lối tắt là:
Nhấn
cảnh:
làm nổi bật cái không gian, thời gian của cảnh (ví dụ
buổi trưa hè, buổi sáng mùa xuân...) chứ không phải hình dáng của sông núi.
Nhấn núi:
làm nổi bật hình núi trong cảnh quan
Tương phản:
núi cao với đất bằng, sơn với thủy
Thêm thắt:
trong cảnh mờ ảo vẽ thêm một số chi tiết nổi lên như
cành lá cây
Chấm dứt đột ngột:
cảnh trí thình lình biến mất, các nét như thể bỏ dở
Gợi ý nguy hiểm:
những nơi hiểm trở không thể tiếp cận như con đường
cụt, vực sâu, biển đảo...
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)